Học Hỏi: Ý nghĩa của việc đi lễ ngày Chúa Nhật

Không có mô tả ảnh.
Tại sao đạo Công Giáo lại bắt các tín hữu phải đi lễ vào Chúa Nhật? Con đi lễ từ thứ hai đến thứ bảy chẳng lẽ không bằng một người chỉ đi lễ ngày Chúa Nhật à?
Chào bạn,
Bất cứ một tôn giáo nào cũng có những buổi cử hành lễ tế như là một hành vi thờ phượng dành cho Đấng Tối Cao của mình. Đối với người Công Giáo, hành vi thờ phượng được cho là cao nhất chính là việc hiệp cùng với vị linh mục dâng thánh lễ. Trong thánh lễ ấy, chúng ta tái hiện lại cuộc tế lễ năm xưa Đức Giêsu đã dâng trên cây thập giá. Người dâng là Đức Giêsu, của lễ dâng lên Chúa Cha cũng chính là Đức Giêsu. Thánh lễ là một cuộc quy tụ của cả vũ trụ hướng về tâm điểm Giêsu, để cùng Giêsu hướng về Cha. Bởi thế, ơn ích mà một thánh lễ mang lại là rất lớn và không sao đo lường được. Tự bản chất, thánh lễ là vô giá, dù nó được cử hành ở nơi trang nghiêm như các Vương Cung Thánh Đường rộng lớn hay nơi một nhà tù dơ bẩn ẩm thấp, dù do Đức Giáo Hoàng chủ sự hay một cha già nằm trên giường bệnh dâng. Vậy nếu thánh lễ là vô giá thì dù bạn đi lễ ngày thường hay ngày Chúa Nhật thì xét về mặt ơn ích, bạn vẫn lãnh nhận được cùng một ơn lành.
Việc muốn các tín hữu đi lễ ngày Chúa Nhật như một điều bắt buộc không liên quan đến tính giá trị của một thánh lễ (vì như đã nói ở trên, thánh lễ nào cũng đều vô giá cả), nhưng liên quan đến ý nghĩa đặc biệt của ngày Chúa Nhật và mức độ ưu tiên của nó hơn những ngày khác trong tuần. Thiên Chúa là Đấng vượt trên không gian và thời gian, nếu đối với Ngài, ngày nào cũng như ngày nào. Nhưng đối với con người thì không như vậy. Không chỉ riêng trong lĩnh vực tôn giáo, nhưng chính kinh nghiệm bản thân cũng cho chúng ta thấy rằng ngày Chúa Nhật có cái gì đó khác với những ngày khác. Nó là một ngày đặc biệt hơn, chất chứa nhiều ý nghĩa hơn. Chúng ta hãy cùng điểm lại một vài chi tiết trong Kinh Thánh cho thấy ý nghĩa trọng đại có một không hai của ngày Chúa Nhật khiến cho nó trở thành ngày trọng đại để dâng lễ tế.
Trước hết, trong trình thuật Sáng Thế, tác giả cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã hoàn tất công trình tạo dựng và “ngày thứ bảy [tức là ngày Chúa Nhật của mình] Người nghỉ ngơi và Thiên Chúa chúc lành cho ngày này” (x. St 2,3). Trong sách Xuất Hành, khi ban luật cho dân, Thiên Chúa đã nói rằng “trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động và làm mọi công việc của ngươi. Nhưng ngày thứ bảy [ngày Chúa Nhật] là hưu lễ kính Thiên Chúa của ngươi; ngươi không được làm bất cứ việc nào, ngươi và con trai con gái ngươi, tớ trai tớ gái của ngươi. Vì trong sáu ngày, Thiên Chúa đã làm nên trời đất, biển và tất cả mọi sự trong các nơi ấy, nhưng Người đã nghỉ ngơi ngày thứ bảy, bởi thế, Thiên Chúa đã chúc lành cho ngày thứ bảy và tác thành nó” (Xh 20,9-11).
Trong thời gian lưu đày ở Babilon, dân Israel rơi vào khủng hoảng. Họ tự vấn, không biết Thiên Chúa bây giờ ở đâu vì lúc đó không còn Đền Thờ, không còn đất hứa như lời Thiên Chúa đã hứa cùng tổ phụ Apraham và với vua Đa-vít nữa. Chính lúc này, Thiên Chúa cho họ biết rằng Thiên Chúa không còn ngự ở một nơi (Đền Thờ) như trước, nhưng là hiện diện trong một thời gian, đó chính là ngày Sabat (ngày Chúa Nhật). Ngày Sabat là ngày của Thiên Chúa, ngày Thiên Chúa đưa đến hoàn tất tất cả những gì còn dang dở trong công trình tạo dựng. Việc Đức Giêsu làm phép lạ chữa lành các bệnh nhân trong ngày Sabat chính là để thể hiện ý này: Ngài cho thấy mình là Thiên Chúa, đến để hoàn tất công trình cứu độ. (Tiếc thay, những người Pharisêu đã không hiểu, lại còn lên án Đức Giêsu).
Hơn hết, ngày Chúa Nhật là ngày quan trọng vì đó là ngày là Đức Giêsu – Chúa chúng ta – đã phục sinh. Điều này một lần nữa bổ sung cho tính “hoàn tất” của ngày Chúa Nhật. Với sự phục sinh của Đức Giêsu, ngày Chúa Nhật mang một ý nghĩa vô cùng quan trọng vì nó cho thấy sự hoàn thành của một công trình tạo dựng mới mà Thánh Thần thực hiện nơi Đức Giêsu. Đó cũng chính là đỉnh điểm của ơn cứu độ và là điểm đến của mọi loài thụ tạo trong trời đất. Từ ý nghĩa này, ngày Chúa Nhật được Giáo Hội chọn để tất cả con cái mình ở khắp nơi quy tụ về với nhau, cùng nhau long trọng dâng lên Thiên Chúa Cha lời tạ ơn từ sâu thẳm con tim mình, tưởng nhớ rằng chính vào ngày này là ngày Thiên Chúa hoàn tất mọi sự, ngày mà chúng ta được thánh hoá, ngày ân sủng của Thiên Chúa, “ngày Thiên Chúa làm ra”. Họp nhau vào ngày Chúa Nhật tại thế giới này báo trước một cuộc họp mặt với nhau trong bàn tiệc vĩnh cữu trên trời mai sau. Thánh lễ ngày Chúa Nhật là một lễ tế của toàn thể dân Chúa, nó mang tính chất của một cộng đoàn là toàn thể Giáo Hội. Nó hệt như ngày tất cả con cái về nhà với cha mẹ, thăm cha mẹ, cùng nhau chia sẻ bữa ăn thân mật và trò chuyện vui vẻ với nhau.
Trong mỗi thánh lễ, Chúa cần hơn hết nơi chúng ta một tấm lòng. Thánh lễ sẽ trở nên vô nghĩa nếu chúng ta chỉ đi vì bắt buộc, vì thói quen. Nếu không vì yêu mến, không xuất phát từ việc ý thức được tầm quan trọng của nó, ta sẽ cảm thấy việc đi lễ là một điều gì đó rất nặng nề. Quả thật, nếu bạn hiểu được ý nghĩa của thánh lễ, đặc biệt là thánh lễ của ngày Chúa Nhật, bạn sẽ không đặt lên bàn cân để so sánh mức độ hơn kém thiệt hơn là các thánh lễ ngày thường với thánh lễ ngày Chúa Nhật.
Ngoài ra, cũng cần phải ý thức rằng, Thiên Chúa và mẹ Giáo Hội không khắc khe đến độ đòi buộc các tín hữu phải đi lễ ngày Chúa Nhật bằng mọi giá. Nếu bạn gặp phải một lý do nào đó bất khả kháng như bệnh tật, đang ở nơi không có linh mục… thì chỉ cần bạn hướng lòng về Chúa thì cũng đã làm cho Ngài vui lòng rồi. Thử lấy một ví dụ thế này: khi có người yêu, ta có thể quan tâm và tặng quà cho người yêu vào bất cứ ngày nào. Nhưng nếu mình quan tâm, đến thăm và tặng quà cho người yêu vào đúng một ngày nào đó có ý nghĩa đặc biệt của người ấy (sinh nhật…) hoặc của cả hai (ngày Valentine hoặc kỷ niệm ngày quen nhau…) thì điều đó sẽ có ý nghĩa hơn rất nhiều, phải không?
Đến đây, chắc là bạn đã có thể tự trả lời cho câu hỏi của mình rồi nhỉ!
Xin Chúa chúc lành cho bạn!

Giáo hội với Hội thánh khác nhau ở chỗ nào?

Không có mô tả ảnh.

Trong các sách vở, trong các bài giảng, cũng như trong những cuộc giao tiếp hằng ngày, lúc thì người ta nói “Giáo hội công giáo” lúc thì “Hội thánh công giáo”. Hai từ ngữ đó, “Giáo hội” và “Hội thánh”, có đồng nghĩa với nhau hay không? Nếu không thì khác nhau ở chỗ nào?
Trước khi trả lời cho những câu hỏi vừa nêu, chúng tôi xin phép ghi nhận một sự kiện về ngôn ngữ tôn giáo ở Việt Nam. Nếu tôi không lầm, thì chỉ có Phật giáo dùng tiếng “Giáo hội” (Giáo hội Phật giáo), chứ không ai nói tới Giáo hội Khổng giáo! Còn hình như không có ai dùng tiếng “Hội thánh” ngoại trừ anh em Tin lành (chúng ta thấy tiếng “Hội thánh Tin lành” được dùng nhiều hơn là “Giáo hội Tin lành”). Như vậy thì trong Việt ngữ, đã có một sự khác biệt về cách áp dụng rồi đó. Còn tại sao lại có sự khác biệt đó, thì tôi xin thú nhận là chưa đủ khả năng trả lời, bởi vì cần phải khảo cứu lịch sử ngôn ngữ Việt Nam để xem những danh từ đó đã xuất hiện từ hồi nào. Chắc chắn là tiếng “Giáo hội Phật giáo” chỉ mới ra đời trong thời gian gần đây, chứ không có trong văn chương cổ truyền. Như chị đã biết, bên Đông phương, người ta quan niệm tôn giáo như là “đạo”, nghĩa là con đường (đạo Phật); hay là “giáo”, nghĩa là lời dạy (Phật giáo). Người nào chấp nhận con đường hay lời dạy đó thì gọi là tín đồ, Phật tử. Các tôn giáo ở Đông phương xem ra không đặt nặng vấn đề cơ cấu tổ chức; vì vậy mà tôi nghĩ rằng họ không có nói tới “Giáo hội”.
Như vậy, “Giáo hội” ám chỉ cái cơ cấu của một tôn giáo, phải không?
Theo tôi nghĩ, thì đúng như vậy. Tuy nhiên, như đã nói trên đây, tôi không có dịp tra cứu lịch sử ngôn ngữ học, để xem tiếng “Giáo hội” xuất hiện trong văn chương Việt Nam từ năm nào. Giới hạn vào Công Giáo, chúng ta thấy rằng hai tiếng “Giáo hội” và “Hội thánh” đều được dùng để dịch cùng một từ trong các tiếng Âu châu: ecclesia tiếng La-tinh, église tiếng Pháp, hay là church trong tiếng Anh.
Con không có rành tiếng La-tinh cho nên không biết ý nghĩa của nó; nhưng mà chữ “église” trong tiếng Pháp có nghĩa là “nhà thờ” nữa, phải không?
Không phải chỉ có tiếng Pháp, mà cả tiếng La-tinh và tiếng anh, “ecclesia” (église, church), vừa có nghĩa là Giáo hội hay hội thánh, lại vừa có nghĩa là nhà thờ nữa.
Có phải tại vì “nhà thờ” tượng trưng cho công giáo, cũng như “nhà chùa” tượng trưng cho Phật giáo hay không?
Có thể là ở Việt Nam đã có người hiểu như vậy. Một lần nữa, tôi xin nhường câu trả lời cho các nhà ngữ học, để xem sự đối chiếu ấy bắt đầu từ bao giờ. Theo tôi, thì trong các thế kỷ trước, khi muốn đối chiếu giữa Thiên Chúa giáo với Phật giáo, thì người ta dùng tiếng “nhà Chúa” để đối lại với “nhà chùa”, chứ không dùng tiếng “nhà thờ”; bởi vì tiếng “nhà thờ” ám chỉ nơi dùng vào việc thờ cúng tổ tiên. Trong xã hội cổ truyền, mỗi gia đình có bàn thờ để kính tổ tiên; còn mỗi dòng họ thì có nhà thờ để kính thủy tổ của tộc. Do đó nhà thờ không thể nào làm biểu hiệu cho Thiên Chúa giáo được.
Nãy giờ, có bao nhiêu câu hỏi mà cha đã dành cho các nhà ngữ học trả lời thay. Bây giờ xin cha vui lòng giải đáp câu hỏi: Giáo hội công giáo và Hội thánh công giáo có gì khác nhau hay không?
Như trên đã nói, xét theo nguyên ngữ thì cả hai đều phát xuất bởi một danh từ duy nhất trong tiếng La-tinh, hoặc tiếng Pháp, tiếng Anh. Dĩ nhiên, bây giờ tới lúc phải hỏi xem: thế thì ecclesiacó nghĩa là gì? Nên biết là muốn đi tìm gốc của tiếng Ecclesia, thì chúng ta phải quay sang tiếng Hy-lạp, tức là nguyên ngữ của Tân ước. Trong tiếng Hy-lạp, ekklesia có nghĩa là sự triệu tập, tụ họp, hội nghị. Khi dịch Cưụ ước từ tiếng Do thái ra tiếng Hy-lạp, thì người ta đã dùng tiếng ecclesia để chuyển nghĩa cái từ “qahal”. Dân Israel đã dùng tiếng đó để ám chỉ cộng đoàn phụng vụ, nghĩa là những người được tụ họp lại để nghe lời Chúa; rồi dần dần chính dân Israel cũng tự coi mình là “qahal” bởi vì họ ý thức rằng sở dĩ các bộ lạc lẻ tẻ đã trở thành một dân tộc là nhờ bởi Chúa đã quy tụ lại: họ là đoàn dân của Chúa, được Chúa quy tụ, và kết lập giao ước. Do đó, ý tưởng chủ chốt trong từ ngữ “ecclesia” (Hy-lạp) hay “qahal” (Do thái) là việc một đoàn dân được Chúa triệu tập, quy tụ. Sang thời Tân ước, các Kitô hữu lấy lại ý tưởng đó, khi gọi mình là “ecclesia”. Thực ra thì trong Tân ước, người ta thấy một từ ngữ “qahal” từ tiếng Do thái đã được dịch ra hai từ ngữ khác nhau: synagoga, nếu ám chỉ Israel (chúng ta thường dịch synagoga là: hội đường), và ecclesia, nếu ám chỉ các Kitô hữu. Qua lối sử dụng từ ngữ như vậy, các nhà chú giải Kinh thánh nhận thấy rằng: các Kitô hữu vừa muốn nêu bật sự liên tục với Israel, lại vừa muốn vạch ra sự khác biệt. Liên tục ở chỗ ý thức rằng các Kitô hữu được quy tụ lại không phải do máu mủ hay là do hợp đồng ý chí, song là do Chúa triệu tập lại. Đây là một cộng đoàn được thành hình do ý định của Thiên Chúa, dựa trên giao ước của Chúa. Nhưng mà đàng khác, các Kitô hữu cũng muốn phân biệt mình với Dân Israel, bởi vì thủ lãnh của họ là đức Kitô, người mục tử đã quy tụ một đoàn chiên mới cho Thiên Chúa qua cái chết của mình.
Như vậy, dịch ra tiếng Việt là “Giáo hội” hay “Hội thánh” thì sát nghĩa lắm rồi, phải không)?
Trong cả hai tiếng “Giáo hội” và “Hội thánh”, chúng ta đều thấy có tiếng “hội”. Nếu mà hiểu “hội” theo nghĩa là “hội họp”, “lễ hội” thì quả thực là sát với nguyên gốc trong Kinh thánh. Có lẽ người ta đã thêm tiếng “Giáo” để nêu bật rằng sự hội họp đó có tính cách “tôn giáo”, để lắng nghe lời Chúa và thờ phượng Ngài, chứ không phải họp nhau để đấu láo hay là bàn chuyện chính trị. Tiếc rằng nhiều lần, chúng ta nghĩ tới “Giáo hội” theo nghĩa của một cơ cấu tổ chức, hơn là nghĩ tới chiều kích năng động của nó: tức là một cộng đoàn được Lời Chúa quy tụ lại để lắng nghe và đáp lại Lời Chúa.
Thế còn “Hội thánh” thì sao?
Thiết tưởng có thể hiểu theo hai nghĩa. Một đàng thì muốn nhấn mạnh tính cách phụng tự của các buổi hội. Như vừa nói, chúng ta hội nhau lại để phụng thờ Chúa, chứ không phải để nhậu nhẹt hay đấu láo. Nghĩa thứ hai, thì nhấn mạnh tới tư cách của những người tham dự buổi hội. Họ là những người “thánh”. Tư tưởng này gặp thấy nơi các tác phẩm của thánh Phaolô: các Kitô hữu được gọi là “thánh”, không phải bởi vì họ đã trở thành siêu nhân, nhưng vì họ đã được rửa sạch khỏi tội lỗi, qua bí tích Thánh tẩy; họ được thánh hóa do chính sự tuyển lựa của Thiên Chúa là Đấng thánh. Vì vậy mà họ họp nhau thành một cộng đoàn các thánh nhân.
Nói như vậy thì chừng nào các Kitô hữu họp nhau lại thì mới thành Giáo hội hay Hội thánh; còn họp xong rồi thì Giáo hội cũng giải tán luôn?
Trong Tân ước, chúng ta thấy tiếng “ecclesia” bao hàm rất nhiều chiều kích. Có lúc thì nó có chiều kích năng động, ám chỉ một buổi hội họp. Theo nghĩa đó, thì dĩ nhiên, khi tan họp thì cũng hết ecclesia. Tuy nhiên có lúc thì nó mang một chiều kích tĩnh, ám chỉ một đoàn thể bao gồm tất cả các Kitô hữu, vượt lên trên điều kiện không gian và thời gian. Từ đó mà ta có hai quan điểm về ecclesia: một quan điểm vượt không gian và thời gian (quen gọi là Giáo hội phổ quát hay hoàn vũ), và một quan điểm gắn với không gian (quen gọi là Giáo hội địa phương). Giáo hội phổ quát hay hoàn vũ bao gồm không những là hết tất cả các tín hữu ở khắp nơi trên mặt đất, mà còn cả các tín hữu còn sống hoặc đã qua đời. Nói khác đi, theo nghĩa này, Hội thánh gồm các tín hữu còn lữ hành lẫn những phúc nhân trên trời cũng như các linh hồn đang được thanh luyện. Tất cả họp thành một Hội thánh duy nhất của đức Kitô, họp thành một thân thể mầu nhiệm mà chính Đức Kitô làm đầu. Tuy nhiên, trong Tân ước, đặc biệt là trong các thư của thánh Phaolô, tiếng ecclesia còn ám chỉ những cộng đoàn của các tín hữu thuộc từng vùng, từng miền, từng chỗ. Vì vậy mà có rất nhiều “Ecclesia”. Trong tiếng Việt, chúng ta thường dịch là “ giáo đoàn”, thí dụ giáo đoàn Rôma, Corintô, Ephêsô, vv. Riêng thánh Phaolô thì ngài thích dùng lối nói “Hội thánh Chúa ở Rôma, Corintô”.
Như vậy, cùng là một từ “ecclesia” mà dịch ra tiếng Việt thành ba từ khác nhau: Giáo hội, Hội thánh, giáo đoàn.
Đâu phải chỉ có ba mà thôi, còn nhiều nữa: nhà thờ, thánh đường, giáo đường. Tại sao như vậy? Như vừa nói, trong Tân ước, tiếng “ecclesia” khi mà hiểu theo nghĩa năng động thì ám chỉ buổi hội họp của các tín hữu. Họ họp nhau ở đâu thì chỗ đó là “ecclesia”, dù là ngoài trời, hay là ở trong tư thất. Chị đã biết là trong những thế kỷ đầu, Kitô giáo còn bị bách hại, cho nên các tín hữu không có nơi thờ tự nhất định. Mãi đến khi họ được hưởng tự do tín ngưỡng, thì họ mới bắt đầu xây cất những nơi thờ tự. Và họ đặt tên cho địa điểm ấy là “ecclesia” (hay: domus ecclesiae), nghĩa là chỗ cho các tín hữu tụ họp nhau lại để cầu nguyện. Từ đó ta thấy có sự chuyển nghĩa: lúc đầu thì ecclesia được dùng để chỉ nhóm người tụ họp nhau, đến nỗi có thể nói được rằng hết họp thì cũng hết ecclesia. Về sau, thì ecclesia được dùng để chỉ nơi tụ họp, và cho dù chẳng có ai họp nữa thì nơi đó cũng được gọi là ecclesia như thường! Trong các tiếng La-tinh và các ngôn ngữ Âu châu, một tiếng ecclesia vừa ám chỉ cộng đoàn Kitô hữu vừa ám chỉ nơi thờ phượng. Đến khi dịch ra Việt ngữ, thì chúng ta gọi cộng đoàn là “Giáo hội, hội thánh, giáo đoàn”; còn nơi thờ phượng thì được gọi là: “nhà thờ, thánh đường, giáo đường”.
Hôm nay, chúng ta đang đề cập đến sự khác biệt giữa danh xưng Đức ông, Đức Giám mục, Tổng Giám mục và Hồng y.
SỰ KHÁC BIỆT GIỮA DANH XƯNG ĐỨC ÔNG, GIÁM MỤC, TỔNG GIÁM MỤC VÀ HỒNG Y
Trong Giáo Hội Công giáo, luôn có một phẩm trật nơi hàng giáo sĩ. Khởi đi từ Giáo hoàng đến các Linh mục chính xứ. Mỗi cấp bậc nơi hàng giáo sĩ có những vai trò đặc biệt riêng trong Giáo hội và phẩm phục của họ cũng khác nhau. Tôi đã trình bày về vai trò của từng cấp bậc đối với chức tư tế trong các bài đăng trước của tôi.
Hôm nay, chúng ta đang đề cập đến sự khác biệt giữa danh xưng Đức ông, Đức Giám mục, Tổng Giám mục và Hồng y.
Áo dòng (một loại áo chùng dài, bó sát người, các thành viên của hàng giáo sĩ hoặc những người khác mặc khi tham gia các buổi cử hành Phụng vụ) và chức vụ của Đức ông, Đức Giám mục, Tổng Giám mục và Hồng y rất khó phân biệt. Bài viết này sẽ giúp chúng ta nhận ra khác biệt của chúng và cách xác định từng cái một.
ĐỨC ÔNG
Danh xưng Đức ông không nằm trong phẩm trật nơi hàng giáo sĩ trong Giáo hội Công giáo. Đây là một tước vị danh dự được trao cho một Linh mục làm việc trong Giáo triều Rôma. Trải qua thời gian, tước vị này được mở rộng ra ngoài Rôma, qua sự giới thiệu của Giám mục Giáo phận, tước vị này có thể được trao cho các linh mục làm việc bên ngoài Rôma, những linh mục có công lao trong việc phục vụ Giáo hội.
Đức ông không có nhiệm vụ khác biệt với bất kỳ linh mục nào khác và không có thẩm quyền đối với linh mục đoàn. Gần đây, Đức Thánh Cha Phanxicô đã hạn chế việc mở rộng tước vị Đức ông, tước vị này chỉ được trao cho các linh mục làm việc trong các cơ quan trung ương tại Giáo triều Rôma.
Là một linh mục làm việc trong các Bộ của Giáo triều Rôma, Đức ông mặc áo chùng màu tím hoặc đen với các nút và sọc màu tím. Đức ông không đội mũ sọ và không mang thánh giá ở ngực. Đây là điểm phân biệt giữa Đức ông và Giám mục.
Tước vị Monsignor có thể được gọi là “Đức ông”, sau đó là họ và tên. Monsignor có thể được viết tắt là “Msgr”.
Màu tím áo Đức ông có truyền thống từ đế chế La Mã khi các thành viên mới của nghị viện được ban áo toga tím. Màu sắc này tượng trưng cho công bằng, uy nghi vương giả và chủ quyền.
GIÁM MỤC
Giám mục là giáo sĩ được tròn đầy bởi bí tích truyền chức thánh. Ngài được Giáo hoàng giao nhiệm vụ trông coi một Giáo phận.
Trong lịch sử của Giáo hội, màu xanh lá cây luôn là màu dành cho các Giám mục, đó là lý do tại sao màu này vẫn được nhìn thấy trên huy hiệu truyền thống của tất cả các Giám mục cho đến nay.
Vào thế kỷ thứ 6, màu phẩm phục của Giám mục đã được thay đổi từ màu xanh lá cây sang màu đỏ tía. Màu này tượng trưng cho trách nhiệm của ngài với tư cách là người lãnh đạo một Giáo phận và năng quyền để ban bí tích truyền chức thánh.
Khi mặc áo dòng, khác với Đức ông các ngài đội thêm mũ sọ, lớp vải lót màu đỏ và đeo thánh giá trước ngực.
Giám mục phụ tá là Giám Mục phụ giúp Giáo phận nhưng không có quyền thừa kế Giám Mục.
Giám mục phó là người hỗ trợ Giám mục Giáo phận và có quyền kế vị nếu Giám mục Giáo phận nghỉ hưu hoặc qua đời.
TỔNG GIÁM MỤC
Tổng Giám mục là một Giám mục của Giáo phận Chính tòa được gọi là Tổng Giáo phận. Tổng giám mục không nằm trong hệ thống phẩm trật của Giáo hội Công giáo, đó là chức danh được trao cho một Giám mục coi sóc một Tổng Giáo phận. Ngài có năng quyền tương tự và đóng vai trò giống như các Giám mục khác.
Tổng giáo phận là một Giáo phận lớn hơn khai sinh ra các Giáo phận khác hoặc là một Giáo phận có tầm quan trọng trong lịch sử.
HỒNG Y
Hồng y là một thành viên trong Hồng y đoàn. Các ngài được gọi là Hồng y vì các ngài đủ điều kiện tham gia cuộc bầu chọn Giáo hoàng. Để trở thành Hồng y, trước hết các ngài buộc phải là Giám mục. Sau khi được bổ nhiệm làm Hồng y, các ngài trở thành những cố vấn thân cận của Đức Thánh Cha trong các vấn đề của Giáo hội, có quyền bỏ phiếu trong cuộc bầu chọn Giáo hoàng cho đến khi các ngài 80 tuổi và các ngài cũng có thể được bầu làm Giáo hoàng.
Các Hồng y là cánh tay đắc lực của Giáo hoàng. Các ngài chịu trách nhiệm đặc biệt ở quốc gia của mình và cả Giáo hội hoàn vũ.
Màu sắc phầm phục của các ngài được biết đến là màu đỏ. Điều này nhằm xác định các ngài là Hồng y và là thành viên của Hồng y đoàn.
Chúng ta cũng có thể nhận biết một vị Hồng y bằng mũ Bétra (một chiếc mũ có 3 hoặc 4 góc cứng được đội lên đầu như một phần của phẩm phục trong phụng vụ). Khi Đức Giáo hoàng đặt mũ Barét lên đầu Hồng y, ngài nói “Hãy chấp nhận màu đỏ tươi này như một dấu hiệu của phẩm giá của vị hồng y, biểu thị sự sẵn sàng của hiền đệ để hành động với lòng can đảm, ngay cả hiền đệ phải chịu đổ màu, để gia tăng niềm tin Kitô giáo, vì sự hòa bình của dân Thiên Chúa cũng như sự tự do và phát triển của Giáo Hội Rôma”.
Tác giả: Ofomah Stephen
Chuyển ngữ: Jos. Đăng Vũ