Tư Liệu: NHÀ THỜ CÔNG GIÁO ĐẦU TIÊN Ở VIỆT NAM VÀ CHA ĐẺ CHỮ QUỐC NGỮ.
NHÀ THỜ CÔNG GIÁO ĐẦU TIÊN Ở VIỆT NAM VÀ CHA ĐẺ CHỮ QUỐC NGỮ.
Nhà thờ Hội An là nhà thờ công giáo đầu tiên tại Việt Nam (Giáo xứ Hội An được thành lập năm 1615). Dinh Trấn Thanh Chiêm (xã Điện Phương, huyện Điện Bàn, Quảng Nam) là cái nôi tiếng Việt theo ngôn La Tinh (năm 1617)
Đầu thế kỷ 17, Chúa Nguyễn cho phép những người nước ngoài đến làm ăn, buôn bán chính thức tại Hội An, trong đó các nhà buôn người Nhật và Hoa Kiều chiếm đại đa số. Năm 1614, chính quyền Nhật Bản thực hiện lệnh cấm đạo nên các giáo sĩ truyền đạo bỏ đi. Họ lên đường đến thương cảng Hội An. Dòng Tên (dòng mang tên Chúa Giêsu) cử 3 tu sĩ gồm Francisco Buzoni, Diego, Carvalho (người Bồ Đào Nha), Jose và Paulo (2 người Nhật Bản) đến Tourain (Đà Nẵng), sau đó họ vào Faifo (Hội An) truyền đạo. Đó là ngày 18/1/1615.
Sau một thời gian, các tu sĩ nhận thấy việc giảng đạo ở Hội An không thuận lợi vì lúc đó, ở đây đa phần là người nước ngoài đến làm ăn, buôn bán nên họ không quan tâm việc nghe giảng đạo. Các nhà truyền giáo lại không biết tiếng An Nam (tiếng Việt) vì vậy họ phải đến vùng Thanh Chiêm cách Hội An khoảng 10km truyền đạo cho người địa phương, vừa truyền đạo vừa học tiếng. Đầu tháng 4 năm 1615 họ đã rửa tội được 10 giáo dân. Năm sau đã có thêm hơn 300 người nữa. Thấy công việc trôi chảy, họ quyết định ở lại Thanh Chiêm. Mặc dù vậy, nhưng giáo xứ Hội An lại được thành lập rất sớm, ngay năm 1615 và cũng trong năm này Nhà thờ Hội An cũng được xây cất.
Năm 1617, giáo sĩ Francisco de Pina người Bồ Đào Nha đến xứ Đàng Trong – Hội An, theo Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng từ Đại học Liège, Bỉ, cho biết: Francisco de Pina là người đã giúp việc La-tinh hóa chữ viết tiếng Việt để công việc truyền giáo trở nên dễ dàng hơn.
Ông cho biết: de Pina sinh ra ở Guarada, một vùng hẻo lánh ở phía bắc Bồ Đào Nha và gia nhập dòng Tên năm 19 tuổi sau đó được gửi đến Hội An vào năm 1617.
“Ông là nhà truyền giáo phương Tây duy nhất nói tiếng Việt lưu loát khi đến Hội An. Ông có thể rao giảng cho người dân địa phương mà không cần thông dịch viên. Sau đó, linh mục đã đặt ngôi trường đầu tiên tại Thanh Chiêm – một địa điểm yên tĩnh và thanh bình – để dạy chữ La Mã và giáo dục tôn giáo vào năm 1619”, ông Hưng cho biết thêm nhà thờ và trường học được xây dựng vào năm 1623. Ông cũng là người giỏi tiếng Nhật nên có thể truyền giáo cho những thương nhân Nhật Bản ở đây, ông đến vùng Thanh Chiêm bỏ tiền ra mua đất làm Nhà thờ và ở đó để học tiếng người địa phương. Ông nghiên cứu tiếng nhờ những người dân địa phương, đến năm 1622 F.Pina cơ bản hoàn tất việc chuyển hóa ngôn ngữ từ âm tiếng Việt sang chữ viết Latinh, mở trường dạy tiếng Việt cho các giáo sĩ trong đó có Antonio de Fontes người Bồ Đào Nha và Alexander de Rhodes người Pháp.
Vào một ngày tháng 12 năm 1625, F.Pina đi nhận hàng ở Cửa Đại – Hội An, trong một cơn bão to làm ông ngã xuống biển và bị đuối nước. Sự ra đi đột ngột của F.Pina đã làm công trình biên soạn tiếng Việt bị dang dở. Sau đó hai nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha là Gaspar de Amaral (1549-1646) và Antonio Barbosa (1594-1647) tiếp tục công trình của F.Pina.
Năm 1625, khi Alexxander De Rhodes bị trục xuất ở xứ Đàng Ngoài vào Hội An và đến Thanh Chiêm. Từ đó, ông mới tiếp tục công trình của F.Pina rồi biên soạn thành tự điển Việt La Bồ (Việt Nam – La Tinh -Bồ Đào Nha). Năm 1645, Alexander de Rhodes chính thức bị Chúa Nguyễn trục xuất khỏi xứ Đàng Trong.
Lịch sử luôn có những điều bất ngờ, các nhà truyền giáo đã làm một điều thật kỳ diệu là đã chuyển tiếng nói của người An Nam từ chỗ không có chữ viết trở thành có chữ viết theo hệ Latinh. Theo các quá trình như trên thì chính Francisco de Pina mới là cha đẻ của chữ Quốc ngữ, tức tiếng Việt ngày nay. Trong khi Alexander De Rhodes chỉ là người học trò của ông, biên soạn tiếp theo dựa trên bộ khung mà Pina thiết kế.
Một điều bí ẩn nữa là giáo sĩ F.Pina lìa trần vào tháng 12 năm 1625 nhưng không thấy tài liệu nào đề cập việc chôn cất ở đâu. Do không thấy tài liệu nào nói đưa thi hài ông đi khỏi xứ Đàng Trong nên có thể khẳng định rằng Francisco de Pina đã được chôn cất tại Hội An (Faifo). Còn vị trí nào, ở đâu thì đến nay vẫn chưa biết được.
Cũng cần nói thêm là ngoài các giáo sĩ Dòng Tên nêu trên còn có các giáo sĩ Hội Thừa Sai Paris như Lambret la Motte (1659-1679), Luy Laneun (1680-1682), Culielm Mahot (1682-1684), Francisco Perez(1684-1728), Carola Marino Lable (1697-1723), Alexandro de Alexandris (1726-1738), Juan Valere Rist (1735-1737). Trong số trên có 3 giáo sĩ đã được cải táng đưa về Nhà thờ Hội An chôn cất.
Như vậy, có thể xác định được là Nhà thờ Hội An là Nhà thờ công giáo đầu tiên tại Việt Nam (Giáo xứ Hội An được thành lập năm 1615). Dinh Trấn Thanh Chiêm (xã Điện Phương, huyện Điện Bàn, Quảng Nam) là cái nôi tiếng Việt (năm 1617 khi F.Pina đến đây bỏ tiền ra mua đất xây Nhà thờ, nghiên cứu chuyển ngữ tiếng nói người Việt ra mẫu tự Latinh). Theo đó, Francisco de Pina (1585-1625) mới chính là cha đẻ của tiếng Việt và Alexander De Rhodes là người kế thừa, phát triển để hệ thống chữ viết hoàn thiện như chúng ta đang dùng ngày nay.
(Tác phẩm điêu khắc của Francisco de Pina (trái) và Alexandre De Rhodes, của nhà điêu khắc Phạm Văn Hạng và nhà thờ đầu tiên tại Việt Nam)
– Sưu tầm – tổng hợp.