Phụng Vụ: HIỂU CHO ĐÚNG VỀ Ý NGHĨA CHÚC LÀNH

HIỂU CHO ĐÚNG VỀ Ý NGHĨA CHÚC LÀNH | CHIA SẺ CỦA ĐỨC TỔNG GIÁM MỤC GIUSE VŨ VĂN THIÊN | TỔNG GIÁO PHẬN HÀ NỘI.

https://www.facebook.com/watch/?ref=saved&v=354944023821673

Trong lịch Phụng Vụ hiện nay, Giáo hội cử hành 2 ngày Lễ Trọng có kèm theo Tuần Bát nhật là Lễ Giáng Sinh và Lễ Phục Sinh. Chúng ta có thể thắc mắc, vậy thì Tuần Bát nhật là gì, và tại sao Tuần Bát nhật lại được cử hành kèm theo 2 ngày lễ trọng này?

  1. Nguồn gốc và lịch sử của Tuần Bát nhật

Về mặt từ ngữ, octave có nghĩa là “tám”. Trong Phụng vụ, thuật ngữ Octave có nghĩa là một cử hành 8 ngày, nói cách khác, là kéo dài ngày lễ cho đến ngày thứ tám. Trong đó, chính ngày lễ được coi là ngày đầu tiên, 6 ngày tiếp theo được gọi là “các ngày trong Tuần Bát nhật”, và ngày thứ tám được gọi là “ngày cuối Tuần Bát nhật”.

Trên thực tế, Giáo hội nhận ra rằng cần nhiều hơn là 1 ngày để chiêm ngắm và cảm nghiệm những gì Thiên Chúa mạc khải trong các mầu nhiệm cao cả được cử hành trong các ngày lễ chính của đức tin. Vì thế, Tuần Bát nhật là một phương thế giúp các tín hữu có thời gian để ghi khắc vào tâm hồn những mầu nhiệm, niềm vui và ân sủng của các lễ trọng trong năm Phụng vụ.

– Ý tưởng về Tuần Bát nhật của một đại lễ bắt nguồn từ Cựu Ước. Theo đó, người Do Thái có nhiều lễ được cử hành kéo dài trong 8 ngày, chẳng hạn như lễ Vượt Qua và lễ Lều Tạm (x. Lv 23, 36). Phép cắt bì, như là một dấu chỉ của giao ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài, được thực hiện vào ngày thứ 8 sau khi sinh con trai (Lv 12, 3), và một số của lễ được quy định cho ngày thứ 8 (Lv 14, 10, 23; 15, 14,29; Ds 6, 10). Sau đó, lễ cung hiến Đền thờ dưới thời Vua Salômôn (x. 2 Sb 7, 9), cũng như lễ thanh tẩy Đền thờ dưới thời Hezekiah (2 Sb 29, 17), kéo dài trong 8 ngày.

– Trường hợp đầu tiên được ghi lại về Tuần Bát nhật trong bối cảnh Phụng vụ Kitô giáo vào khoảng thế kỷ thứ IV. Dưới thời Hoàng đế Constantine (- 337), không chỉ bắt chước lễ cung hiến Đền thờ Do Thái, các ngày lễ cung hiến các vương cung thánh đường tại Giêrusalem và Tyre kéo dài trong 8 ngày, như là cách thế đánh dấu “đời sống mới” của Giáo hội sau thời gian bị bách hại.

Trong 8 thế kỷ tiếp theo, việc thực hành Tuần Bát nhật ngày càng nhiều. Sau Lễ Phục sinh, Lễ Ngũ tuần, và Lễ Giáng sinh, hầu như tất cả các lễ trọng cũng được kèm theo Tuần Bát nhật, chẳng hạn như lễ Các Thánh, lễ Hiển Linh, lễ Thăng Thiên, lễ Mình Máu Thánh Chúa, lễ Thánh Gioan Tẩy Giả và cả lễ Thánh Phêrô và Phaolô.

Có một giai đoạn, lịch Phụng vụ có tớ 15 lễ kèm theo Tuần Bát nhật. Đến thế kỷ XVI, Đức Pio V đưa ra một hệ thống phân loại và các tiêu chí đánh giá phụng vụ cho nhiều cử hành nhằm bắt đầu giảm con số Tuần Bát nhật. Vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, dưới thời Đức Leo XIII và Đức Pio X những cải cách bổ sung liên quan đến Tuần Bát nhật tiếp tục được được áp dụng.

Đến năm 1955, Đức Piô XII giữ lại 3 Tuần Bát nhật đi kèm 3 ngày lễ trọng đó là Phục sinh, Ngũ tuần và Giáng sinh. Sau đó, từ năm 1969 đến nay, lịch Phụng vụ của Giáo hội chỉ còn giữ lại Bát nhật Phục Sinh và Bát nhật Giáng sinh.

  1. Việc cử hành các Tuần Bát nhật hiện nay

Khi giữ lại Tuần Bát nhật của Lễ Giáng sinh và Lễ Phục sinh, Giáo hội mời gọi tín hữu đi sâu hơn vào 2 mầu nhiệm cao cả ở đầu và cuối cuộc đời trần thế của Đức Giêsu: Nhập thể và Phục sinh.

Trong Tuần Bát nhật, Kinh Vinh Danh được đọc hoặc hát trong Thánh lễ. Riêng Tuần Bát nhật Phục sinh, câu AlleluiaAlleluia được đọc vào cuối mỗi Thánh Lễ.

a. Bát Nhật Giáng Sinh

Tuần Bát nhật Giáng sinh kéo dài từ ngày chính lễ Giáng sinh (25. 12) đến Lễ trọng Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa (01. 01), trong đó, mỗi ngày đều lặp lại sự trang trọng và tiếp tục niềm vui của lễ Giáng Sinh.  Ngoài ra, mặc dù Tuần Bát nhật có kèm theo các ngày lễ kính: Thánh Stêphanô, Thánh Gioan Tông Đồ Thánh Sử, Các Thánh Anh Hài, và Thánh Gia, nhưng mỗi ngày lễ này đều hướng tín hữu theo cách riêng đến mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể, Đấng đã đến cư ngụ giữa nhân loại.

Trong Phụng vụ, qua việc đọc lại các trình thuật Tin Mừng thời thơ ấu của Đức Giêsu, Giáo Hội ngoài việc khuyến khích tín hữu suy tư về mầu nhiệm nhập thể của con Thiên Chúa còn giúp tiến đến sự hiểu biết về Người một cách cá vị và mật thiết hơn.

Ngày thứ 8 của Tuần Bát nhật là Lễ Trọng Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, không chỉ đánh dấu sự làm sáng tỏ quan trọng giáo lý về thiên tính và nhân tính của Chúa Kitô, mà còn là thời điểm thích hợp để tôn kính Mẹ Maria, người đã đóng vai trò quan trọng trong mầu nhiệm Nhập Thể. Đồng thời tín hữu cũng được mời gọi noi gương đời sống đức tin của Mẹ khi bước vào năm mới theo lịch dân sự.

b. Bát Nhật Phục Sinh

Theo lịch Phụng vụ hiện nay, Tuần Bát nhật Phục Sinh bắt đầu vào Chúa Nhật Phục Sinh và kết thúc vào Chúa Nhật Thứ Hai Phục Sinh, kính Lòng Chúa Thương Xót.  Không giống với Bát nhật Giáng sinh, Bát nhật Phục Sinh hoàn toàn tập trung vào Chúa phục sinh, mỗi ngày tự nó là một lễ trọng, hoặc một “Lễ Phục Sinh nhỏ”, nên không có lễ kính hoặc lễ nhớ nào được cử hành trong Tuần Bát nhật.

Trong lịch sử, có một giai đoạn, mỗi ngày trong Tuần Bát nhật Phục sinh, các tân tòng tham dự Thánh lễ tại một nhà thờ khác nhau ở Rôma. Vào buổi tối, họ đến nhà thờ thánh Gioan Laterano để dự Kinh Chiều. Hơn nữa, các tân tòng sẽ mặc áo rửa tội trong suốt Tuần Bát nhật cho đến Chúa nhật thứ II Phục sinh, nên được gọi là “Chúa nhật áo trắng”. Vào năm 2000, thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II đã chọn ngày này là ngày Chúa nhật Kính Lòng Chúa Thương Xót, vì theo ngài, “Lòng Thương Xót Chúa là món quà Phục Sinh mà Giáo Hội nhận được từ Chúa Kitô phục sinh và trao hiến cho nhân loại’”.

Với mục đích giúp tín hữu suy tư sâu hơn về mối liên hệ giữa mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô với Bí Tích Thanh Tẩy, các bài Tin Mừng trong suốt các Thánh Lễ đều kể lại những khía cạnh khác nhau của câu chuyện Phục Sinh. Qua đó, mỗi tín hữu được nhắc nhở rằng Núi Sọ không phải là cùng tận: giống như Maria Madalena, chúng ta có thể gặp Chúa phục sinh trong khu vườn của bối cảnh cuộc sống; giống như hai môn đệ trên đường Emmaus, chúng ta có thể được Chúa phục sinh giải gỡ những nỗi buồn, bối rối để lấy lại được niềm phấn khởi, nhiệt tâm; giống như Phêrô và Gioan chúng ta có thể nhận ra Chúa phục sinh khi đối diện với ngôi mộ trống của phận người.

  1. Sống Tuần Bát nhật

Như một người mẹ hiểu các nhu cầu của con cái, mẹ Giáo hội cho chúng ta thời gian để từ từ tiếp nhận và khắc sâu vào tâm hồn những niềm vui, ân sủng kỳ diệu Thiên Chúa đã thực hiện. Hơn nữa, khi cử hành Tuần Bát nhật chúng ta có cơ hội để cảm nhận sâu sa hơn mầu nhiệm cứu độ qua sự Giáng sinh và Phục sinh của Đức Kitô, Đấng không chỉ là Đầu của nhiệm thể Giáo hội, mà còn liên đới cách thiết thân đến từng người chúng ta.

Vậy thì phải chăng, khi sống Tuần Bát nhật cũng là lúc chúng ta xác tín rằng: Đức Giêsu Kitô, Đấng có tên là – Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Ngài đang ở với chúng ta mọi lúc, trong mọi cảnh huống dù là khổ đau, bấp bênh, bất hạnh; và chính tại thời điểm hiện tại này là thời khắc tuyệt vời nhất để bắt đầu lại, để đến bên Ngài; và để cho Ngài chi phối toàn bộ cuộc sống, và cuộc đời của chúng ta?

Nt. Anna Ngọc Diệp, OP
Dòng Đa Minh Thánh Tâm
Theo: thestationofthecross.com (20. 12. 2022);
simplycatholic.com; và blessedisshe.net (23. 04. 2019)

Chúc lành là gì? Chúng ta cùng xem qua phúc lành trong Kinh thánh và Giáo hội

Chúc lành là một từ chung được dùng để cầu xin ơn sủng của Thiên Chúa cho một cá nhân hay đồ vật. Nó không phải là một bí tích trong Giáo hội.Kinh Thánh nói về phúc lành trong nhiều tình huống khác nhau, thường là khi một cá nhân ca ngợi và tôn vinh Thiên Chúa.

Bách khoa từ điển Công giáo giải thích định nghĩa chung này về phúc lành như sau: “Phúc lành được xem là đồng nghĩa với lời khen ngợi; do đó tác giả Thánh vịnh nói: “Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi” (34,1).

Vì thế, việc chúc lành, như Sách Giáo lý mô tả, là một động tác cầu nguyện:

Chúc lành diễn tả hoạt động cơ bản của việc cầu nguyện Kitô giáo: đó là cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người. Nơi phúc lành, hồng ân của Thiên Chúa và sự chấp nhận của con người được hợp nhất trong cuộc đối thoại với nhau. Kinh nguyện chúc tụng là cách con người đáp lại những hồng ân của Thiên Chúa: vì Thiên Chúa chúc lành cho con người và tới lượt tâm hồn con người chúc tụng Đấng là nguồn mạch mọi phúc lành (GLCG 2626).

Một khía cạnh khác của việc “chúc lành” là cầu nguyện để ân sủng của Chúa có thể được ban cho một cá nhân khác.

[Chúc lành] được dùng để diễn tả ước muốn hoặc ao ước mọi điều tốt đẹp, đặc biệt điều thiêng liêng hoặc siêu nhiên, có thể được ban cho người hoặc đồ vật, như Đavít đã nói: “Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may” (Tv 128,2).Giáo Hội chúc lành

Giáo hội đã theo những dấu chân này trong Kinh thánh bằng nhiều cách khác nhau, ban phúc lành trong nhiều hoàn cảnh khác nhau.

Một điều cần ghi nhớ, theo Bách khoa từ điển Công giáo, “Phép lành không phải là bí tích … Chúng là á bí tích”.

Thực vậy, Sách Giáo lý giải thích rằng phép lành đứng hàng đầu trong số các á bí tích:

– 1671 : “Trong số các á bí tích, đứng đầu là các sự chúc lành (cho con người, cho bàn ăn, cho các sự vật và các nơi chốn). Bất cứ sự chúc lành nào cũng đều là lời ngợi khen Thiên Chúa và là lời cầu xin các hồng ân của Ngài. Trong Chúa Kitô, các kitô hữu được chúc lành bởi Thiên Chúa Cha “bằng tất cả mọi thứ chúc lành thiêng liêng” (Ep 1,3). Bởi vậy Giáo hội ban phép lành bằng cách kêu cầu Danh thánh Chúa Giêsu và thường có kèm dấu Thánh Giá của Chúa Kitô”.

– 1672 : “Một số những chúc lành có tầm vóc lâu dài: đó là để thánh hiến cho Thiên Chúa những con người, và để dành một số đồ vật và nơi chốn cho việc cử hành phụng vụ. Trong số những chúc lành cho con người (đừng lộn với sự truyền chức thánh là một bí tích) có: sự chúc lành cho một viện phụ (hoặc một nữ viện phụ) của một đan viện, – sự thánh hiến các trinh nữ, – nghi thức tuyên khấn dòng, – và những chúc lành cho một số thừa tác vụ trong Giáo Hội (chức đọc sách, chức giúp lễ, các giáo lý viên…). Về sự chúc lành cho các đồ vật, có thể nêu ra sự cung hiến hoặc làm phép một nhà thờ hay một bàn thờ, làm phép các dầu thánh, các quả chuông, v.v.”

Phép lành thường được ban kèm với việc rảy nước thánh. Thời điểm thông thường để các tín hữu nhận phép lành là cuối Thánh lễ, khi linh mục làm Dấu Thánh Giá trên các tín hữu.

Philip Kosloski

G. Võ Tá Hoàng chuyển ngữ

Nguồn tin: https://www.aleteia.org