GIAÓ LUẬT

CÁC HÌNH THỨC TÔN SÙNG LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA
Có thể là hình ảnh về 1 người và văn bản cho biết 'LẠY CHÚA GIÊSU, CON TÍN THÁC VÀO CHÚA'
Thứ nhất là hình Lòng Thương Xót Chúa.
Mẫu của tấm hình này đã do chính Chúa Giêsu cho chị Faustina thấy trong thị kiến ngày 22 tháng 2 năm 1931 trong phòng của tu viện tại Plock. Chị ghi lại trong nhật ký như sau: “Ban chiều khi đang ở trong phòng của mình, tôi trông thấy Chúa Giêsu mặc chiếc áo trắng: một tay giơ lên để chúc lành, trong khi tay kia chạm vào áo trên ngực, từ đó nhích ra bên cạnh để cho hai luồng sáng lớn phát ra, một đỏ, một nhạt… Sau một chút Chúa Giêsu nói với tôi: “Con hãy vẽ một hình giống mẫu con trông thấy, bên dưới viết: “Giêsu, con tín thác nơi Chúa!” (Nhật ký r. 74). “Cha muốn tấm hình này được làm phép một cách trọng thể vào ngày Chúa Nhật thứ nhất sau lễ Phục Sinh, Chúa Nhật này phải là lễ của Lòng Thương Xót” (Nhật ký, tr. 75).
Ý nghĩa tấm hình này gắn liền một cách mật thiết với phụng vụ của ngày Chúa Nhật đó. Trong ngày này Giáo Hội đọc Phúc Âm theo thánh Gioan miêu tả biến cố Chúa Giêsu phục sinh hiện ra trong Nhà Tiệc Ly và việc thành lập bí tích sám hối (Ga 20,19-29) Như thế, bức hình diễn tả Chúa Cứu Thế phục sinh đem đến cho cọn người niềm an bình với việc tha thứ các tội lỗi, với giá trả là cuộc Khổ Nạn và cái chết của Người trên thập giá. Các tia sáng của máu và nước vọt ra từ trái tim Chúa Giêsu bị lưỡi đòng đâm thâu và các vết sẹo của các thương tích của việc đóng đanh đưa chúng ta trở về với các biến cổ của ngày Thư Sáu Tuần Thánh (Ga 19,17-18.33-37). Hình Chúa Giêsu Thương Xót quy tụ trong nó cả hai trình thuật nói lên tình yêu của Thiên Chúa đối với con người.
Trong hình của Chúa Kitô có hai tia ánh sáng. Thánh nữ Faustina hỏi Chúa Giêsu ý nghĩa của hai tia ánh sáng này và Ngài giải thích chúng như sau: “Tia sáng lạt diễn tả Nước khiến cho các linh hồn nên công chính; tia sáng đỏ diễn tả Máu là sự sống của các linh hồn. Phúc cho người sống dưới bóng chúng” (Nhật ký, tr.235). Linh hồn được thanh tẩy bởi bí tích rửa tội và bí tích sám hối, trong khi lương thực tốt nhất cho nó là bí tích Thánh Thể. Như vậy, hai tia sáng này biểu tượng cho các bí tích thánh và tất cả mọi ân sủng của Chúa Thánh Thần, có biểu tượng kinh thánh là nước, và cả giao ước mới của Thiên Chúa với con người được ký kết bằng máu Chúa Kitô.
Hình của Chúa Giêsu Thương Xót thường được gọi là hình Lòng Chúa Thương Xót, bởi vì trong mầu nhiệm phục sinh của Chúa Kitô tình yêu của Thiên Chúa đối với con người được vén mở một cách rõ ràng hơn. Bức hình không chỉ diễn tả lòng thương xót của Thiên Chúa, mà con nhắc cho kitô hữu nhớ tới bổn phận phải tin cậy đối với Thiên Chúa và sống lòng bác ái tích cực đối với tha nhân. Trong phần dưới của bức hình – do ý muốn của Chúa Kitô – có viết các lời: “Giêsu, con tín thác nơi Chúa”. Ngoài ra Chúa Giêsu còn nói: “Bức hình này phải nhắc nhớ các đòi buộc của Lòng Thương Xót của Cha, bởi vì cả lòng tin mạnh mẽ nhất cũng không ích lợi gì, nếu không có các việc làm” (Nhật ký, tr. 457).
Chúa Giêsu đã đưa ra các lời hứa lớn lao cho những ai tôn kính ảnh Chúa Giêsu Thương Xót: ơn cứu rỗi đời đời, các tiến bộ trên con đường hướng tới sự trọn lành kitô, ơn có một cái chết hạnh phúc và các ơn khác nữa, nếu con người xin chúng với lòng tin tưởng. “Qua bức hình này Cha sẽ ban nhiều ơn cho các linh hồn, vì thế mỗi linh hồn phải có thể đến với nó” (Nhật Ký, tr. 379).
Thứ hai là lễ kính Lòng Thương Xót.
Nó chiếm chỗ quan trọng nhất trong tất cả mọi hình thái tôn sùng Lòng Thương Xót Chúa đã được vén mở cho thánh nữ Faustina. Lần đầu tiên Chúa Giêsu đã nói với thánh nữ về việc thành lập lễ này là tại Plock vào năm 1931, khi Ngài truyền cho thánh nữ ý muốn của Ngài liên quan tới bức hình: ” Cha ước ao rằng bức hình mà con sẽ vẽ bằng bút, được làm phép cách long trọng trong ngày Chúa Nhật thứ nhất sau lễ Phục Sinh; Chúa Nhật này phải là lễ của Lòng Thương Xót” (Nhật ký, tr. 75).
Việc chọn ngày Chúa Nhật thứ nhất sau lễ Phục Sinh làm ngày lễ lòng thương xót có một ý nghĩa thần học sâu xa, cho thấy mối dây liên lạc mạnh mẽ giữa mầu nhiệm phục sinh của việc Cứu Chuộc và mầu nhiệm Lòng Thương Xót Chúa. Mối dây này được nhấn mạnh về sau bởi Tuần Cửu Nhật kính Lòng Chúa Thương Xót, trước ngày lễ và bắt đầu vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, trong đó tín hữu lần hạt kính Lòng Thương Xót.
Ngày lễ không phải chỉ là một ngày đặc biệt tôn thờ Thiên Chúa trong mầu nhiệm lòng thương xót, nhưng còn là thời gian ơn thánh cho tất cả mọi người. Chúa Giêsu đã nói: “Cha ước mong rằng lễ Lòng Thương Xót là sự bảo vệ và ẩn náu cho tất cả mọi linh hồn, và cách đặc biệt cho các kẻ tội lỗi đáng thương” (Nhật ký, tr. 440). “Các linh hồn hư đi mặc dù Cuộc Khổ Nạn đau thương của Cha. Cha ban cho chúng lần cứu rỗi cuối cùng, nghĩa là lễ Lòng Thương Xót của Cha. Nếu chúng không tôn thờ Lòng Thương Xót của Cha, chúng sẽ chết đời đời” (Nhật ký, tr. 561).
Tầm quan trọng của ngày lễ này được đo lường với các lời hứa ngoại thường mà Chúa Giêsu đã cột buộc vào nó. Chúa Giêsu đã nói: “Trong ngày đó, ai đến gần suối nguồn sự sống, người đó sẽ được tha hết mọi tội và hình phạt” (Nhạt ký, tr. 235). “Trong ngày đó ruột Lòng Thương Xót của Cha sẽ mở ra, Cha sẽ tuôn đổ cả một biển ơn thánh trên các linh hồn đến gần suối nguồn Lòng Thương Xót của Cha… Ðừng có linh hồn nào sợ hãi đến gần Cha, cả khi tội lỗi của nó có đỏ như son đi nữa” (Nhạt ký, tr. 441).
Ðể được các ơn lớn lao này cần phải chu toàn các điều kiện của việc tôn sùng Lòng Thương Xót Chúa (tin tưởng nơi lòng nhân lành của Thiên Chúa và sống bác aí tích cực với tha nhân), ở trong tình trạng ơn thánh (sau khi xưng tội) và rước lễ một cách xứng đáng. “Không có một linh hồn nào sẽ tìm được sự công chính hoá cho tới khi nào hướng tới Lòng Thương Xót Cha với sự tin tưởng, và vì thế ngày Chúa Nhật đầu tiên sau lễ Phục Sinh phải là lễ Lòng Thương Xót, và các linh mục trong ngày đó phải nói với các linh hồn về Lòng Thương Xót vĩ đại và khôn dò của Cha” (Nhật ký, tr. 378).
Thứ ba là Chuỗi nhỏ Lòng Thương Xót Chúa.
Nó đã được Chúa Giêsu đọc cho thánh nữ Faustina ghi lại tại Vilnius ngày 13-14 tháng 9 năm 1935 như là lời cầu nguyện giúp nguôi cơn giận của Thiên Chúa (Nhật ký tr. 327-329). Ai đọc chuỗi nhỏ này thì dâng lên Thiên Chúa Cha “Thân xác, Máu, Linh Hồn và Thiên Tính” của Chúa Giêsu Kitô để khẩn nài lòng thương xót cho các tội riêng, cho các tội của tha nhân và của toàn thế giới, đồng thời trong khi kết hiệp với hiến lễ của Chúa Giêsu cũng hướng tới tình yêu mà Thiên Chúa Cha trên trời ban cho Chúa Con, và trong Người ban cho tất cả mọi người.
Với lời cầu này người ta cũng xin “lòng thương xót cho chúng ta và cho toàn thế giới”,và như thế người ta chu toàn một cử chỉ của lòng thương xót. Với sự tin tưởng hoàn toàn nơi Thiên Chúa và việc gắn bó với ý muốn của Ngài, tín hữu có thể chờ đợi việc thành toàn các lời hứa của Chúa Kitô, cách riêng các lời hứa liên quan tới giờ chết: ơn hoán cải và một cái chết thanh thản. Không chỉ những ai lần hạt kính Lòng Thương Xót sẽ nhận được các ơn đó, nhưng cả người hấp hối mà người ta lần hạt kính Lòng Thương Xót bên cạnh họ nữa. Chúa Giêsu đã nói: “Khi chuỗi Lòng Thương Xót được lần bên cạnh người hấp hối, cơn giận của Thiên Chúa được nguôi ngoai, và Lòng Thương Xót khôn dò bao bọc linh hồn” (Nhật ký, tr. 487). Lời hứa tổng quát nói rằng: “Vì việc lần hạt này Cha thích ban cho tất cả những gì họ sẽ xin Cha” (Nhật ký, tr. 806). “Với chuỗi lòng thương xót con sẽ được mọi sự, nếu điều con xin phù hợp với Ý muốn của Cha” (Nhật ký, tr. 897). Thật thế, tất cả những gì trái nghịch với ý muốn của Thiên Chúa thì không phải là một thiện ích cho con người, và cách riêng cho hạnh phúc vĩnh cửu của nó.
Trong một lúc khác Chúa Giêsu nói: “Với việc lần chuỗi lòng thương xót còn đưa nhân loại tới gần Cha” (Nhật ký, tr. 543). “Lòng Thương Xót của Cha sẽ bao bọc trong khi sống và đặc biệt trong giờ chết các linh hồn sẽ lần chuỗi hạt này” (Nhật ký tr. 463).
Thứ tư là giờ của Lòng Thương Xót.
Vào tháng 10 năm 1937 tại Cracovia Chúa Giêsu đã nói với thánh nữ Faustina tôn kính giờ chết của Chúa. “Mỗi khi con nghe đồng hồ điểm ba giờ, hãy nhớ dìm toàn thân mình con trong Lòng Thương Xót của Cha, bằng cách thờ lậy nó và chúc tụng nó; hãy khẩn nài quyền năng của nó cho toàn thế giới và đặc biệt cho các kẻ tội lỗi đáng thương, bởi vì chính trong giờ đó Lòng Thương Xót được mở toang ra cho mọi tâm hồn” (Nhật ký, tr. 820).
Rồi Chúa nói thêm: “Con gái của Cha, trong giờ đó hãy đi Ðàng Thánh Giá, nếu các bổn phận không cho phép con, và nếu con không đi Ðàng Thánh Giá được, thì ít nhất hãy vào nhà nguyện một lúc và tôn kính Trái Tim Cha trong Bí Tích Cực Thánh tràn đầy Lòng Thương Xót. Và nếu con không thể đến nhà nguyện, thì hãy cầm trí cầu nguyện ít nhất trong một lúc ngắn tại nơi con đang ở” (Nhật ký, tr. 820)
Giáo sư thần học gia Rozycki chỉ ra các điều kiện để lời cầu nguyện nói lên trong lúc đó được lắng nghe: nó phải hướng về Chúa Giêsu và được đọc vào lúc 3 giờ chiều, phải quy chiếu các giá trị và công nghiệp Cuộc Khổ Nạn của Chúa Kitô. Chúa Giêsu đã hứa: “Trong giờ đó con sẽ được tất cả cho con và cho các người khác, trong giờ đó ơn thánh được ban cho toàn thế giới, Lòng Thương Xót chiến thắng công lý” (Nhật ký tr. 820).
Thứ năm là phổ biến việc tôn sùng Lòng Thương Xót Chúa.
Theo giáo sư thần học gia Rozycki lời Chúa Giêsu hứa cũng liên quan tới việc phổ biến lòng tôn sùng Lòng Thương Xót Chúa. “Các linh hồn phổ biến việc tôn sùng Lòng Thương Xót của Cha, Cha che chở họ suốt đời, như một bà mẹ dịu dàng che chở đứa con thơ còn đang bú sữa, và trong giờ chết Cha sẽ không là một thẩm phán đối với chúng, nhưng là Ðấng Cứu Ðộ xót thương” (Nhật ký tr. 604).
Nòng cốt của việc tôn sùng Lòng Thương Xót Chúa hệ tại thái độ của tín hữu kitô tin tưởng nơi Thiên Chúa và sống bác ái tích cực đối với tha nhân. Chúa Giêsu đòi hỏi lòng tin tưởng của các thụ tạo (x, Nhật ký tr. 597) và các việc bác ái, bằng hành động, lời nói và lời cầu nguyện. “Con phải cho thấy lòng thương xót đối với tha nhân luôn luôn và ở khắp mọi nơi: con không thể miễn cho mình điều này, cũng không được khước từ hay biện minh cho mình” (Nhật ký, tr. 457). Chúa Kitô muốn rằng các người tôn kính Ngài mỗi ngày phải chu toàn ít nhất là một hành động bác ái đối với người khác.
Việc phổ biến lòng tôn sùng Lòng Thương Xót Chúa không nhất thiết đòi hỏi nhiều lời nói, nhưng đòi buộc phải có đức tin, lòng tin tưởng nơi Thiên Chúa và lòng thương xót ngày càng lớn hơn. Trong cuộc sống của mình thánh nữ Faustina đã làm gương cho việc tông đồ này.
Việc tôn sùng Lòng Thương Xót Chúa đưa đến chỗ canh tân cuộc sống tu trì trong Giáo Hội, trong tinh thần của sự tin tưởng kitô và lòng thương xót. Dưới khía cạnh này chúng ta gặp thấy trong các trang nhật ký tử tưởng của thánh Faustina về một “dòng tu mới”, đó cũng là ước muốn chính Chúa Giêsu đã tỏ cho chị biết. Tư tưởng này đã có một tiến triển chắc chắn: từ một dòng chiêm niệm trở thành một phong trào được làm thành bởi các dòng hoạt động cũng như bởi giáo dân. Cộng đoàn lớn này vượt qua các quốc tịch là một gia đình được cột buộc bởi Thiên Chúa trong mầu nhiệm Lòng Thương Xót của Ngài, và hiệp nhất bởi ước muốn suy niệm đặc tính này của Chúa trong con tim, bằng cách biểu lộ nó ra trong các hành động riêng làm vinh danh Chúa trong mọi linh hồn. Ðó là một cộng đoàn bao gồm nhiều người, trong các cách thức khác nhau tùy theo điều kiện và ơn gọi của mình (linh mục, tu sĩ hay giáo dân sống giữa đời), sống lý tưởng tin mừng của lòng tin tưởng và thương xót, loan báo mầu nhiệm khôn tả Lòng Thương Xót Chúa với chính cuộc sống của mình và bằng lời nói, và khẩn nài Lòng Thương Xót của Thiên Chúa cho toàn thế giới.
Sứ mệnh của thánh nữ Faustina tìm ra một nguồn gợi hứng trong Thánh Kinh, và phản ánh trong các tài liệu của Giáo Hội, nhất là trong Thông điệp Dives in misercordia Thiên Chúa giàu lòng xót thương của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II.
Tội phạm và hình phạt theo luật Giáo Hội Công Giáo
Xét theo bản chất, Giáo Hội Công Giáo vừa là một thực thể tâm linh (nhiệm thể Chúa Kitô) vừa là một đoàn thể hữu hình bao gồm các giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân Kitô). Đồng thời, Giáo Hội là một tổ chức có cơ cấu phẩm trật, trong đó các phần tử đối với nhau theo công bằng và bác ái. Ngoài ra, các tín hữu phải vâng phục các vị lãnh đạo của mình tại địa phương cũng như tại trung ương.
1. Quyền bính của Giáo Hội
Xét theo đối ngoại, Giáo Hội lãnh nhận quyền hành từ Chúa Giêsu, Đấng Sáng Lập Giáo Hội, chứ không phải do nhân dân hay Nhà nước ban cấp. Do đó, Giáo Hội gọi quyền này là quyền bẩm sinh (x. đ. 362; 747 §1; 1254 §1; 1260). Xét theo đối nội, Giáo Hội phải đặt ra những quy luật thường được gọi là “luật” để xác định rõ ràng tương quan công lý giữa các phần tử. Trước tiên, Giáo Hội phải chu toàn những nghĩa vụ với Chúa như trung thành với Lòi Chúa, đức tin, bí tích, loan truyền Tin Mừng cho mọi người. Tiếp theo, Giáo Hội nhắc nhở các tín hữu chu toàn những nghĩa vụ của họ đối với Chúa và Giáo Hội, sống xứng đáng với địa vị con cái Thiên Chúa, hiệp thông để xây dựng Giáo Hội vững mạnh trong đức tin, đức cậy, và đức ái.
2. Giáo Hội là cộng đoàn các thánh
Giáo Hội ý thức mình là cộng đoàn các thánh nhưng cũng ý thức rằng tất cả thành phần của Giáo Hội đều là những con người yếu đuối tội lỗi (1Ga 1,18). Do đó, có những thánh phần vi phạm luật lệ, không những gây nên xáo trộn trật tự nhưng còn nghịch lại bản tính thánh thiện của các tín hữu cũng như cộng đoàn Kitô. Một đàng, Giáo Hội tỏ ra nghiêm khắc do ý thức cao độ về ơn cứu độ và sự thánh thiện. Đàng khác, Giáo Hội tỏ ra thông cảm do ý thức về thân phận mỏng dòn của con người. Chính các vị lãnh dạo Giáo Hội đã trải qua những sa ngã nhờ ơn Chúa. Thánh Phêrô chối Chúa 3 lần. Thánh Phaolô đã lộng ngôn, bách đạo và ngạo ngược nhưng đã được Chúa thương xót…(1Tim 1,13-15) Trong xã hội hoặc Giáo Hội, có những thành viên hành động sai lầm nên gây thiệt hại cho cộng đoàn và cá nhân. Xã hội có những hình phạt dành cho các phạm nhân vì làm rối loạn trật tự công cộng. Giáo Hội bài trừ các tội phạm vì chúng làm hoen ố sự thánh thiện của Giáo Hội.
3. Ý niệm và những yếu tố tạo nên tội phạm
Theo Giáo luật, tội phạm được hiểu như là sự vi phạm bên ngoài và có thể quy trách một luật có thể gắn theo một chế tài ít là bất định. Có 3 yếu tố cấu thành tội phạm: 1/ Sự vi phạm bên ngoài về một luật hoặc một mệnh lệnh của Giáo Hội qua lời nói hoặc hành động; 2/ Hành vi ấy có thể quy trách được cho chủ thể, nghĩa là đương sự phải nhận trách nhiệm về hành vi đó khi vi phạm luật cách ý thức và tự do; 3/ Luật hay mệnh lệnh có kèm theo chế tài. Một hành vị chỉ bị coi là tội phạm khi vi phạm một luật có kèm theo hình phạt. Một điều đáng chú ý là chỉ có những tín hữu Công Giáo mới là chủ thể của tội phạm bị trừng phạt theo quy định của bộ Giáo luật.
4. Khàc biệt giữa “tội lỗi” (sin) và “tội phạm” (delict)
“Tội lỗi” là từ dùng cho sự vi phạm trong lãnh vực luân lý. Tội phạm dùng trong lãnh vực hình sự. Tội lỗi khác biệt với tội phạm ở những điểm sau: 1/ Tội lỗi có thể diễn ra trong tâm tư, lời nói và hành động. Tội phạm phải được thực hiện ra bên ngoài; 2/ Tội lỗi có thể là nặng hoặc nhẹ (tội nặng hoặc tội nhẹ), trong khi có chỉ có những vi phạm nặng mới có thể trở thành tội phạm; 3/ Tội lỗi là sự vi phạm luân lý nói chung. Tội phạm chỉ giới hạn vào luật hình sự mà thôi.
5. Mục đích Giáo Hội áp dụng những hình phạt
Giáo luật điều 1399 qui định tổng quát: Ngoài những trường hợp do luật này hay do những luật khác ấn định, sự vi phạm bên ngoài về một luật Thiên Chúa hay luật Giáo Hội chỉ có thể bị một hình phạt thích đáng, khi tính cách nghiêm trọng đặc biệt của sự vi phạm đòi hỏi một sự trừng phạt, và khi có yêu cầu thúc bách phải phòng ngừa hay sửa chữa những gương xấu. Hình phạt là biện pháp của Giáo luật trừng trị tội phạm. Hình phạt gồm có 3 yếu tố: 1/ Bị giới hạn hưởng điều tốt. Phạm nhân có thể bị giới hạn về những điều tốt bên ngoài như không được tham dự các bí tích hoặc giữ các chức vụ; 2/ Vị lãnh đạo mới có quyền thiết lập và áp dụng những hình phạt nhất định (đ. 1319); 3/ Mục đích chính hình phạt là cải hóa phạm nhân và sửa chữa tội phạm. Khi ra hình phạt, Giáo Hội không nhắm đến việc loại trừ phạm nhân ra khỏi cộng đoàn cho bằng tìm cách giúp họ xứng đáng lãnh nhận ơn cứu rỗi. Chính vì thế, cải hóa phạm nhân đi trước việc trừng trị tội phạm.
6. Những hình phạt “chữa trị” (penal remedies) và những hình phạt “đền tội” (expiatory penalties)
Hình phạt “chữa trị” được coi như thuốc chữa bệnh, giúp cải thiện phạm nhân để họ từ bỏ cố chấp. Trước khi ra hình phạt, cần phải cảnh cáo họ để họ từ bỏ sự cố chấp, nếu khuyến cáo vô ích thì mới dùng hình phạt (đ. 1347 §1). Hình phạt này kéo dài cho đến khi phạm nhân thành thực hối lỗi. Phạm nhân được tha khi chấm dứt sự cố chấp (đ. 1358 §1). Hình phạt “đền tội” hay báo đáp được áp dụng vì ích lợi thiện ích công cộng hơn là cá nhân. Hình phạt này thường được xác định thời gian.
7. Những vị có thẩm quyền thiết lập hình phạt dưới hình thức luật hoặc mệnh lệnh
Những vị có thẩm quyền được phân chia ra như sau: 1/ Chí có những vị nào có thẩm quyền lập pháp mới có thể thiết lập luật hình sự (đ. 1315); 2/ Ai được quyền cai quản thì có thể thiết lập mệnh lệnh hình sự (đ. 1319). Những người có thẩm quyền lập pháp gồm có: a) Đức Thánh Cha và Công đồng hoàn vũ, đối với toàn thể Giáo Hội; b) Các công đồng địa phương (quốc gia, miền) trong giới hạn địa phương; c) Giám mục giáo phận trong giáo phận của mình. Điều 1315 giải thích thêm về việc cơ quan địa phương có thẩm quyền trong 5 điểm sau: a) Họ có thể ban hành luật kèm theo hình phạt dành cho địa phương của mình (đ. 1315 §1), thí dụ thêm hình phạt cho các sòng bạc, buôn ma tuý hoặc buôn dâm; b) Họ có thể thêm hình phạt vào một luật Chúa (đ. 1315 §1) thi dụ như thêm hình phạt cho những người ly dị tại toà án dân sự; c) Họ có thể thêm hình phạt vào một luật do cấp trên ban hành (đ. 1315 §1); d) Khi cần thiết trầm trọng, họ có thể tăng thêm hình phạt vào một luật hình do cơ quan lập pháp toàn cầu đã ban hành (đ. 1315 §3); e) Họ có thể quy định hình phạt xác định và bó buộc mà luật chung có tính cách bất định hoặc nhiệm ý (đ. 1315 §3). Tuy nhiên, điều 1317 nhắc nhở: Chỉ nên thiết lập hình phạt khi thực sự cần thiết để bảo vệ kỷ luật Giáo Hội một cách thích hợp.
8. Tính chất hình luật
Khi áp dụng , những hình luật có thể là “xác định” (determinate) hay “bất định” (indeterminate), có thể là “bắt buộc” (obligatory) hay “nhiệm ý” (facultative). Gọi là xác định khi luật đã xác định rõ ràng hình phạt cho phạm nhân, thí dụ ai phạm tội ly giáo thì bị phạt tuyệt thông (x. đi 1364). Gọi là bất định vì nhà lập pháp dành việc xác định hình phạt cụ thể cho cơ quan hành pháp (đ. 1315 §2). Gọi là bắt buộc khi luật buộc phải ra hình phạt phạm nhân. Gọi là nhiệm ý khi luật để cho nhà chức trách tùy nghi thẩm định có cần ra hình phạt hay không (đ. 1369; 1370 §3; 1371; 1372; 1376; 1377; 1379; 1381; 1386; 1392; 1395 §2; 1396). Ngoài ra còn có hình phạt “tiền kết” hay tự kết (latae sententiae) và hình phạt “hậu kết” (ferendae sententiae). Về hình phạt tiền kết, phạm nhân mắc phải hình phạt ngay khi vi phạm do luật qui định và không cần tòa kết án (x. đ 1314). Hình phạt hậu kết chỉ nhận hình phạt sau khi bị toà kết án.
9. Những tội phạm mắc phải các hình phạt tiền kết
a. Có 6 tội phạm mắc hình phạt tuyệt thông tiền kết: 1/ Những người bội giáo, lạc giáo hay ly giáo (đ. 1364 §1); 2/ Những người ném bỏ, lấy hoặc giữ Mình Máu Thánh Chúa với mục đích phạm thánh (đ. 1367); 3/ Người nào dung vũ lực thể lý chống lại Đức Giáo Hoàng Roma (đ. 1370 §1); 4/ Tư tế nào giải tội phạm điều thứ sáu cho người đồng lõa, chiếu theo điều 977 (đ. 1378 §1); 5/ Giám Mục nào phong chức Giám Mục cho một người mà không có thư ủy nhiệm của Đức Giáo Hoàng, cũng như người nào được vị ấy truyền chức cho (đ. 1382); 6/ Cha giải tội trực tiếp vi phạm ấn tòa giải tội (đ. 1388)
b. Có 5 tội phạm mắc hình phạt cầm chế tiền kết: 1 Người nào dung vũ lực thể lý chống lại một người có chức Giám Mục (đ. 1370 §2); 2/ Người nào không phải là tư tế mà cám cử hành Thánh Lễ hay ban bí tích Giải tội hoặc nghe xưng tội như bí tích (1378 §2); 3/ Giám mục phong chức cho một người thuộc quyền Giám Mục khác mà không có thư giới thiệu hợp pháp (đ. 1383); 4/ Người nào cáo gian một cha giải tội với Bề Trên trong Giáo Hội về tội dụ dỗ hối nhân phạm tội điều răn thứ sáu, chiếu theo điều 1387 (đ. 1390 §1); 5/ Một giáo sĩ mưu toan kết hôn, dù chỉ là dân sự, thì bị vạ huyền chức tiền kết (đ. 1394 §1)
c. Có 6 tội phạm mắc hình phạt huyền chức: 1/ Giáo sĩ dung vũ lực thể lý chống lại một người có chức Giám Mục (1370 §2); 2/ Giáo sĩ không phải là tư tế mà dám cử hành phụng vụ Hiến Tế Thánh Thể hoặc dám ban bí tích Giải Tội hoặc nghe xưng tội như bí tích (đ 1378 §2); 3/ Người được thụ phong do một Giám Mục khác mà không có thư giới thiệu hợp pháp (đ. 1383); 4/ Giáo sĩ cáo gian một cha giải tội với Bề Trên trong Giáo Hội về tội dụ dỗ hối nhân phạm tội điều răn thứ sáu, chiếu theo điều 1387 (đ. 1390 §1); 5/ Giáo sĩ mưu toan kết hôn, dù chỉ là hôn nhân dân sự (đ. 1394 §1)
d. Có 1 tội phạm mắc cấm chế tiền kết: Giám Mục truyền chức cho một người thuộc quyền Giám Mục khác mà không có giấy giới thiệu hợp pháp, thì bị cấm truyền thức trong vòng một năm (đ. 1383
10. Những hình phạt chữa trị
Trong bộ Giáo luật hiện hành, nhà lập pháp đã liệ kê ba thứ hình phạt chữa trị: tuyệt thông (excommunication), cấm chế (censure) và huyền chức (suspension). 1/ Hình phạt vạ tuyệt thông ngăn cấm phạm nhân lãnh nhận tất cả các bí tích. Chính đương sự tự ý rời bỏ Giáo Hội, chứ không phải là Giáo Hội đã trục xuất họ (x. Đ. 316 §1; 1117); 2/ Cấm chế có nghĩa là bị cấm đoán. Trong giai đoạn một, phạm nhân bị: a) cấm không được làm thừa tác viên trong các buổi cử hành phụng vụ; b) cấm không được ban và nhận lãnh các bí tích và á bí tích. Trong giai đoạn hai (sau khi bị tuyên án) phạm nhân bị trục xuất khỏi các buổi cử hành phụng vụ hay buổi lễ phải tạm đình chỉ; 3/ Huyền chức (suspension) chỉ áp dụng cho giáo sĩ. Phạm nhân bị cấm thi hành các chức năng thuộc quyền thánh chức, quyền cai quản hoặc quyền lợi trong bậc giáo sĩ (đ. 1333 §1)
11. Những hình phạt đền tội
Những hình phạt đền tội nhắm mục đích sửa chữa những tổn hại mà tội phạm đãy gây ra. Điều 1336 §1 nêu lên 5 hình thức hình phạt vĩnh viễn hoặc tạm thời: 1/ Cấm chỉ (prohibition) hay bắt buộc lưu trú tại một nơi hay một lãnh thổ nhất định. Hình phạt này áp dụng cho giáo sĩ và tu sĩ; 2/ Tước quyền hành (privation of power) hay chức vụ (office), nhiệm vụ (function), quyền lợi (right), đặc ân (privilege), năng quyền (faculty), ân huệ (grace) danh hiệu (title) hoặc phù hiệu (insignia) dù chỉ là thuần túy danh dự; 3/ Cấm thi hành những điều kê khai ở số 2 hoặc cấm thi hành các điều ấy ở một nơi hoặc ngoài một nơi nhất định; 4/ Thuyên chuyển sang chức vụ khác vì tính cách hình sự. Theo giáo luật, có thứ thuyên chuyển như là thủ tục hành chánh (đ. 190-191; 1748-1752) nhắm tới ích lợi của các tín hữu hoặc nhu cầu của Giáo Hội. Còn sự thuyên chuyển hình sự nhằm trừng phạt một tội phạm; 5/ Trục xuất khỏi hàng giáo sĩ. Ấn tích đã nhận lãnh do chức thánh không thể nào bị hủy bỏ hoặc tước đoạt (đ. 1328 §2). Tuy nhiên, giáo sĩ bị cấm thi hành tác vụ chức thánh và mất hết quyền lợi bậc giáo sĩ. Việc cấm thi hành chức thánh bị đình chỉ mỗi khi cần phải giúp một người tín hữu đang trong tình trạng nguy tử (đ. 1338 §2, đ. 1335)
12. Những biện pháp hình sự và việc sám hối
Điều 1339 nói đến hai biện pháp “cảnh cáo” (warning) và “khiển trách” (rebuke). Bề Trên cảnh cáo để họ dừng lại việc họ đang toan tính hoặc cảnh cáo họ từ bỏ sự cố chấp. Cảnh cáo bằng văn thư là điều kiện hữu hiệu cho việc tuyên kết (đ. 1347). Nhà lập pháp đòi hỏi Bề Trên Dòng tu phải cảnh cáo tu sĩ hai lần trước khi tiến hành thủ tục trục xuất (đ. 697). Bề trên khiển trách đương sự để họ thấy hạnh kiểm của họ gây ra gương xấu và xáo trộn trật tự trầm trọng. Theo sự khôn ngoan của mình, Đấng Bản Quyền có thể thêm những việc sám hối vào dược hình cảnh cáo và khiển trách thay vì đưa ra cách hình phạt nặng hơn vì phạm nhân đáng được khoan hồng (đ. 1324 §1; 1328 §2) hay đã hối cải (đ. 1343)
Tại sao các thừa tác viên đọc sách không đọc số chương và câu khi đọc Lời Chúa trong Thánh Lễ?
Có thể là hình ảnh về 2 người
Một bạn trẻ đã đến gặp tôi và hỏi: Thưa Cha, tại sao người Công giáo không đọc các chương và câu khi họ đọc Lời Chúa trong Thánh lễ? Sau đó cậu ta tiếp tục: Mục sư của con nói với con rằng, bởi vì người Công giáo không muốn mọi người biết Kinh thánh và biết sự thật, đó là lý do tại sao họ không đọc số chương và số câu. Tôi quay sang bạn trẻ ấy và mỉm cười. Sau đó, tôi nói với cậu ta, nếu con biết câu trả lời rồi tại sao con còn hỏi Cha? Cậu ta đáp lại rằng bởi vì câu trả lời của vị Mục sư không thuyết phục cậu ta.
Sau đó tôi nói với cậu ta: Trước tiên Cha xin đính chính lại với con một điều. Người Công giáo không phải là đọc Lời Chúa mà là công bố Lời Chúa trong Thánh lễ. Việc đọc có nghĩa là chỉ nhìn và hiểu ý nghĩa của các ký tự hoặc biểu tượng được trình bày, trong khi công bố chính là để loan báo. Những gì người Công giáo làm là công bố Lời Chúa từ Kinh Thánh. Mỗi người Công giáo đã có Lịch Phụng vụ hoặc Sách lễ có chứa tất cả các bài đọc. Do đó, nhìn chung mọi người Công giáo đều biết các bài đọc của ngày 17 tháng 3 năm 2021 sẽ đến từ đâu chứ không chỉ các bài đọc trong ngày hay ngày sau. Như vậy, lẽ ra người Công giáo phải đọc các bài đọc tại nhà trước khi đến tham dự Thánh lễ.
Khi chúng ta đến tham dự Thánh Lễ, chỉ có thừa tác viên đọc sách và Linh Mục hoặc Phó Tế mới được phép công bố Lời Chúa từ bản văn. Mỗi người phải lắng nghe người công bố Lời Chúa, không đọc Lời Chúa từ bản văn của mình bởi vì tại thời điểm đó, chúng ta không phải đang diễn tập. Vào lúc đó, chúng ta đang công bố Lời Chúa và mọi người phải lắng nghe. Đó là lý do tại sao sau khi thừa tác viên đọc sách công bố xong, họ kết thúc bằng câu ĐÓ LÀ LỜI CHÚA và sau khi Linh mục hay Phó tế công bố xong bài Phúc Âm, họ cũng kết thúc bằng câu ĐÓ LÀ LỜI CHÚA. Khi chúng ta đọc số chương và câu của Lời Chúa, chúng đang khuyến khích cộng đoàn mở sách Kinh Thánh ra để đọc theo. Việc làm này, chúng ta không phải công bố Lời Chúa nữa, mà là đọc Lời Chúa.
Trong phần Phụng vụ Lời Chúa, chúng ta công bố Tin Mừng. Giống như cách Êxơra đã làm trong sách Nêhêmi 8, 2-9 và dân chúng đã lắng nghe và thậm chí đã khóc. Vì vậy tất cả chúng ta phải lắng nghe, để LỜI CHÚA có thể in sâu vào lòng chúng ta. Sau đó, những từ ngữ trong bài Tin mừng sẽ được linh mục làm rõ hơn qua bài giảng. Bài giảng này có đặc điểm là giáo huấn, làm người nghe thích thú và cảm động. Điều này đã xảy với dân Israel trong sách Nêhêmi 8, 9. Chính qua LỜI đã đưa dân Israel đến một hành động yêu thương, sau đó Ngôi Lời đã trở nên người phàm nơi bàn tiệc Thánh Thể (Gioan 1,14) mà chúng ta được lãnh nhận qua bí tích Thánh Thể. Nơi bí tích Thánh Thể, chúng ta trở nên Lời Thiên Chúa Hằng Sống.
Sau đó tôi hỏi anh bạn trẻ, con có hiểu không? Cậu ta chỉ im lặng, không thốt nên lời.
Tác giả: Lm. Harvey Chikumbu