GIÁO LÝ CHO BÀI GIẢNG CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH NĂM A
CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH NĂM A (Theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích) |
Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly
- Khi đến Giờ của Người, Chúa Giêsu cầu nguyện cùng Chúa Cha[1]. Lời cầu nguyện của Người, lời dài nhất được sách Tin Mừng lưu truyền, bao gồm toàn bộ Nhiệm cục tạo dựng và cứu độ, cũng như cả cái Chết và sự Phục sinh của Người. Lời cầu nguyện trong Giờ của Chúa Giêsu vẫn luôn còn là lời cầu nguyện của Người, cũng như cuộc Vượt Qua của Người, đã diễn ra “một lần cho mãi mãi”, vẫn luôn hiện diện trong phụng vụ của Hội Thánh Người.
- Truyền thống Kitô giáo gọi lời nguyện này một cách xác đáng là “lời nguyện tư tế” của Chúa Giêsu. Đây chính là lời cầu nguyện của Vị Thượng Tế của chúng ta, lời cầu nguyện này không thể tách rời khỏi cuộc hiến tế của Người, khỏi cuộc Vượt Qua của Người để về cùng Chúa Cha, trong đó chính Người “được thánh hiến”[2] trọn vẹn cho Chúa Cha.
- Trong lời cầu nguyện của cuộc Vượt Qua, của cuộc hiến tế này, mọi sự “được quy tụ”[3] trong Người: Thiên Chúa và thế gian, Ngôi Lời và xác phàm, sự sống vĩnh cửu và thời gian, tình yêu tự trao nộp và tội phản bội lại tình yêu, các môn đệ đang có mặt và những người sẽ tin vào Người nhờ lời của các ông, sự hạ mình và vinh quang. Đó là lời cầu nguyện của sự Hợp nhất.
- Chúa Giêsu đã hoàn thành toàn bộ công trình của Chúa Cha và lời cầu nguyện cũng như hy lễ của Người trải rộng tới lúc hoàn tất thời gian. Lời cầu nguyện trong Giờ của Người hoàn thành những thời buổi cuối cùng và dẫn đưa chúng đến chỗ hoàn tất. Chúa Giêsu, Người Con đã được Chúa Cha trao cho mọi sự, đã trao hiến trọn vẹn cho Chúa Cha và đồng thời Người tỏ ra mình hoàn toàn tự do[4], nhờ quyền năng Chúa Cha ban cho Người trên mọi xác phàm. Người Con, Đấng đã trở thành Người Tôi Tớ, là Chúa, là Đấng Toàn Năng (Pantocrator). Vị Thượng Tế cao cả của chúng ta, Đấng cầu nguyện cho chúng ta, cũng là Đấng cầu nguyện trong chúng ta, và là Thiên Chúa, Đấng nhận lời chúng ta cầu nguyện.
- Khi đã thuộc về Danh thánh của Chúa Giêsu, chúng ta có thể đón nhận, từ bên trong, lời cầu nguyện chính Người dạy chúng ta: “Lạy Cha chúng con”. Lời cầu nguyện tư tế của Người, từ bên trong, gợi hứng cho những lời cầu xin quan trọng của kinh Lạy Cha: quan tâm đến Danh Cha[5], nhiệt tình với Nước Cha (vinh quang[6]), chu toàn Ý Cha, kế hoạch cứu độ của Ngài[7] và sự giải thoát khỏi sự dữ[8].
- Cuối cùng, trong lời cầu nguyện này, Chúa Giêsu mạc khải và dạy chúng ta sự “hiểu biết” bất khả phân ly về Chúa Cha và Chúa Con[9]. Sự hiểu biết ấy chính là mầu nhiệm của đời sống cầu nguyện.
Số 661, 1025-1026, 2795: Đức Kitô mở đường cho chúng ta về trời
- Bước cuối cùng này vẫn liên kết chặt chẽ với bước đầu tiên, nghĩa là với việc từ trời xuống thế, được thực hiện trong việc Nhập Thể. Chỉ có Đấng “từ Chúa Cha mà đến” mới có thể “trở về cùng Chúa Cha”: đó là Đức Kitô[10]. “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3,13)[11]. Nhân loại, với sức tự nhiên của mình, không thể vào được “Nhà Cha”[12], không thể đạt tới sự sống và sự vinh phúc của Thiên Chúa. Chỉ có Đức Kitô mới có thể mở lối cho con người tiến vào: “Người lên trời không phải để lìa xa thân phận yếu hèn của chúng con, nhưng để chúng con là chi thể của Người, tin tưởng được theo Người đến nơi mà chính Người là Đầu và là Thủ lãnh của chúng con đã đến trước”[13].
- Sống trên thiên đàng là “ở với Đức Kitô”[14]. Những người được tuyển chọn sống “trong Người”, nhưng ở đó họ vẫn giữ, thậm chí họ tìm được, căn tính riêng của mình, danh xưng riêng của mình[15].
“Quả vậy, sự sống là được ở với Đức Kitô, bởi vì ở đâu có Đức Kitô, ở đó là Nước Trời”[16].
- Chúa Giêsu Kitô, nhờ sự chết và sự sống lại của Người, đã “mở cửa” thiên đàng cho chúng ta. Sự sống của các Thánh cốt tại việc sở hữu sung mãn các hoa trái của ơn Cứu Chuộc mà Đức Kitô đã hoàn thành, Người là Đấng kết hợp vào vinh quang thiên quốc của Người những ai đã tin vào Người và đã trung thành với thánh ý Người. Thiên Đàng là cộng đồng vinh phúc của tất cả những người đã được tháp nhập trọn vẹn vào Đức Kitô.
- Thuật ngữ “ở trên trời” hướng chúng ta đến mầu nhiệm Giao ước mà chúng ta đang sống, khi chúng ta cầu nguyện với Cha chúng ta. Ngài “ở trên trời”, đó là nơi Ngài ngự, là nhà của Cha, nên cũng là “quê hương” của ta. Tội lỗi đã khiến chúng ta bị lưu đày xa miền đất Giao ước[17], còn hối cải tâm hồn sẽ dẫn đưa chúng ta trở về cùng Cha “ở trên trời”[18]. Quả vậy, trời đất được giao hòa trong Đức Kitô[19], bởi vì chỉ có Chúa Con đã “từ trời xuống”, và chính Người đã dẫn đưa chúng ta lên trời với Người, nhờ thập giá, sự Phục sinh và Thăng thiên của Người[20].
Số 151, 1698, 2614, 2466: Tin vào Chúa Giêsu
- Đối với Kitô hữu, tin vào Thiên Chúa không thể tách rời khỏi việc tin vào Đấng Ngài đã sai đến, tức là Con chí ái của Ngài, đẹp lòng Ngài mọi đàng[21]. Thiên Chúa đã dạy chúng ta phải nghe lời Con của Ngài[22]. Chính Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ Người: “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (Ga 14,l). Chúng ta có thể tin vào Chúa Giêsu Kitô, vì chính Người là Thiên Chúa, là Ngôi Lời nhập thể: “Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả; nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1,18). Bởi vì Người “đã thấy Chúa Cha” (Ga 6,46), nên chỉ một mình Người biết Chúa Cha và có thẩm quyền mạc khải Chúa Cha cho chúng ta[23].
- Điểm quy chiếu đầu tiên và tối thượng của việc dạy giáo lý như vậy sẽ luôn luôn là chính Chúa Giêsu Kitô, Đấng là “con đường, là sự thật, và là sự sống” (Ga 14,6). Khi nhìn ngắm Người bằng đức tin, các Kitô hữu có thể hy vọng chính Người sẽ thực hiện nơi họ những điều Người đã hứa, và khi yêu mến Người bằng tình yêu mà Người đã yêu mến họ, họ có thể thực hiện được những việc phù hợp với phẩm giá của mình:
“Tôi xin bạn hãy coi Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là Đầu thật của bạn và bạn là một trong các chi thể của Người…. Người đối với bạn cũng như đầu đối với các chi thể; mọi sự của Người, là của bạn: tinh thần, trái tim, thân thể, linh hồn và mọi khả năng của Người, … bạn phải sử dụng tất cả như của riêng bạn để phục vụ, ca ngợi, yêu mến và tôn vinh Thiên Chúa. Nhưng bạn thuộc về Người, như chi thể thuộc về đầu, vì vậy Người hết sức khao khát sử dụng tất cả các tài năng của bạn, như là của Người, để phục vụ và tôn vinh Cha Người”[24].
“Đối với tôi, sống là Đức Kitô” (Pl 1,21).
- Khi Chúa Giêsu ký thác cách công khai cho các môn đệ Người mầu nhiệm cầu nguyện với Chúa Cha, thì Người tỏ cho các ông kinh nguyện của các ông – và cũng là của chúng ta – phải thế nào, một khi Người sẽ trở về với Chúa Cha trong nhân tính đã được tôn vinh của Người. Vào lúc đó điều mới mẻ là “cầu xin nhân danh Người”[25]. Lòng tin vào Người đưa các môn đệ đến chỗ biết Chúa Cha, vì Chúa Giêsu là “Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14,6). Lòng tin mang lại hoa trái trong lòng mến: đó là tuân giữ lời Người, các giới răn của Người, đó là cùng với Người ở lại trong Chúa Cha, Đấng yêu mến chúng ta trong Người, đến độ ở lại trong chúng ta. Trong Giao ước mới này, chúng ta xác tín rằng những lời cầu xin của chúng ta được đoái nhận, niềm xác tín đó dựa trên nền tảng là lời cầu nguyện của Chúa Giêsu[26].
- Chân lý của Thiên Chúa được tỏ hiện cách trọn vẹn nơi Chúa Giêsu Kitô. Chính Người, Đấng tràn đầy ân sủng và chân lý[27], là “ánh sáng thế gian” (Ga 8,12). Chính Người là chân lý[28]. Mọi kẻ tin vào Người, thì không còn ở trong bóng tối[29]. Môn đệ của Chúa Giêsu ở trong lời Người, để nhận biết chân lý có sức giải thoát[30] và thánh hóa[31]. Bước theo Chúa Giêsu là sống bởi Thánh Thần chân lý[32], Đấng Chúa Cha sai đến nhân danh Người[33], và là Đấng sẽ dẫn đưa đến “sự thật toàn vẹn” (Ga 16,13). Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải tuyệt đối yêu mến chân lý: “Trong lời nói của anh em, hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’” (Mt 5,37).
Số 1569-1571: Chức phó tế
- “Ở bậc thấp hơn của phẩm trật, có các phó tế, những người được đặt tay, không phải để lãnh nhận chức tư tế, nhưng là để phục vụ”[34]. Khi truyền chức phó tế, chỉ một mình Giám mục đặt tay; điều này cho thấy phó tế được liên kết đặc biệt với Giám mục trong các trách nhiệm “phục vụ”[35] của ngài.
- Các phó tế tham dự vào sứ vụ và ân sủng của Đức Kitô[36] một cách đặc biệt. Bí tích Truyền Chức Thánh ghi cho họ một ấn tín không thể tẩy xóa, và làm cho họ nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, Đấng trở thành “người phục vụ”, nghĩa là tôi tớ của mọi người[37]. Ngoài các nhiệm vụ khác, phần việc của các phó tế là phụ giúp Giám mục và các linh mục trong việc cử hành các mầu nhiệm thần linh, nhất là mầu nhiệm Thánh Thể, trao Mình Thánh Chúa, chứng kiến và chúc lành cho bí tích Hôn Phối, công bố và giảng Tin Mừng, chủ sự lễ nghi an táng và dấn thân vào các việc phục vụ bác ái[38].
- 1571. Sau Công đồng Vaticanô II, Giáo Hội La tinh tái lập chức phó tế “xét như một bậc riêng và vĩnh viễn của phẩm trật”[39], trong khi các Giáo Hội Đông phương vẫn duy trì chức vụ này từ xưa. Chức phó tế vĩnh viễn này, có thể được ban cho những người nam đã lập gia đình, làm phong phú cho Hội Thánh trong vấn đề sứ vụ. Quả vậy, thật là thích hợp và hữu ích, khi có những người chu toàn thừa tác vụ phó tế trong Hội Thánh cả trong đời sống phụng vụ và mục vụ cả trong các công tác xã hội và bác ái, “nhờ việc đặt tay đã được các Tông Đồ truyền lại, họ được nên vững mạnh và được kết hợp mật thiết hơn với bàn thánh, để chu toàn thừa tác vụ của mình một cách hữu hiệu hơn nhờ ân sủng bí tích của chức phó tế[40].
Số 782, 803, 1141, 1174, 1269, 1322: “Giống nòi được tuyển chọn, hàng tư tế vương giả”
- Dân Thiên Chúa có những đặc tính, phân biệt họ một cách rõ ràng với tất cả những tập thể trong lịch sử về tôn giáo, chủng tộc, chính trị hoặc văn hóa:
– Đây là dân của Thiên Chúa: Thiên Chúa không thuộc riêng một dân nào. Nhưng Ngài thủ đắc cho mình một dân từ những người trước kia không phải là một dân: “là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh” (1 Pr 2,9).
– Người ta trở nên phần tử của dân này, không nhờ sự sinh ra theo thể lý, nhưng nhờ sự sinh ra “bởi ơn trên”, “bởi nước và Thần Khí” (Ga 3,3-5), nghĩa là, nhờ đức tin vào Đức Kitô và nhờ bí tích Rửa Tội.
– “Dân này có Đấng làm Đầu là Chúa Giêsu Kitô (Đấng Được Xức Dầu, Đấng Messia): bởi vì cùng một Sự Xức Dầu, là Chúa Thánh Thần, chảy từ Đầu vào Thân thể, nên đây là “Dân thuộc về Đấng Được Xức Dầu”.
– “Dân này có phẩm giá và sự tự do của các con cái Thiên Chúa, Chúa Thánh Thần ngự trong trái tim của họ như trong một đền thờ”[41].
– “Dân này có Luật là giới răn mới của yêu thương như chính Đức Kitô đã yêu thương chúng ta”[42]. Đó là Luật “mới” của Chúa Thánh Thần[43].
– Sứ vụ của dân này là làm muối đất và ánh sáng thế gian[44]. “Dân này là hạt giống chắc chắn nhất mang lại sự hợp nhất, niềm hy vọng và ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại”[45].
– Cuối cùng, mục đích của dân này là “Nước Thiên Chúa, đã được chính Thiên Chúa khởi sự nơi trần thế và ngày càng lan rộng, cho đến khi được chính Ngài hoàn tất trong ngày tận thế”[46].
- “Anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa” (1 Pr 2,9).
- Cộng đoàn cử hành phụng vụ là cộng đoàn của những người đã lãnh nhận bí tích Rửa Tội, “nhờ sự tái sinh và sự xức dầu bằng Chúa Thánh Thần, họ được thánh hiến để trở thành ngôi nhà thiêng liêng và hàng tư tế thánh, để dâng lên những của lễ thiêng liêng qua tất cả các công việc của Kitô hữu”[47]. “Chức tư tế cộng đồng” này là chức tư tế của Đức Kitô, vị Tư Tế duy nhất, mà tất cả các chi thể của Người đều được tham dự vào[48]:
“Mẹ Hội Thánh tha thiết ước mong mọi tín hữu đều được hướng dẫn tham dự các việc cử hành phụng vụ cách đầy đủ, ý thức và tích cực. Việc tham dự như vậy do chính bản chất phụng vụ đòi hỏi, và dân Kitô giáo, ‘là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa’ (1 Pr 2,9)[49], do bí tích Rửa Tội, có quyền lợi và nhiệm vụ trong việc tham dự như vậy”[50].
- Mầu nhiệm của Đức Kitô, cuộc Nhập Thể và Vượt Qua của Người, mà chúng ta cử hành trong bí tích Thánh Thể, đặc biệt nơi cộng đoàn quy tụ ngày Chúa nhật, thấm nhập và biến đổi thời gian của từng ngày nhờ việc cử hành các Giờ Kinh phụng vụ, còn gọi là kinh “Thần Vụ”[51]. Trung thành với những lời khuyên của các Tông Đồ là “hãy cầu nguyện không ngừng”[52], việc cử hành này “đã được thiết lập để suốt cả ngày đêm được thánh hiến bằng việc ca ngợi Thiên Chúa”[53]. Các Giờ Kinh phụng vụ là “kinh nguyện công khai của Hội Thánh”[54], trong đó các tín hữu (giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân) thực thi chức tư tế vương giả của những người đã lãnh bí tích Rửa Tội. Khi được cử hành “theo hình thức được Hội Thánh phê chuẩn”, các Giờ Kinh phụng vụ “thật sự là tiếng của chính Hiền Thê nói với Phu Quân; thậm chí còn là lời cầu nguyện của Đức Kitô cùng với Thân thể Người dâng lên Chúa Cha”[55].
- Người đã chịu Phép Rửa đã trở thành phần tử của Hội Thánh, họ không còn thuộc về mình nữa[56], nhưng thuộc về Đấng đã chết và đã sống lại vì chúng ta[57]. Từ nay, họ được mời gọi để phục tùng lẫn nhau[58] và phục vụ người khác[59] trong sự hiệp thông của Hội Thánh, được mời gọi “vâng lời và phục tùng” các vị lãnh đạo của Hội Thánh[60] với lòng kính trọng và quý mến[61]. Cũng như bí tích Rửa Tội là nguồn mạch của các trách nhiệm và bổn phận, người chịu Phép Rửa cũng được hưởng các quyền lợi trong lòng Hội Thánh: được lãnh nhận các bí tích, được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và được nâng đỡ bằng các trợ giúp thiêng liêng khác của Hội Thánh[62].
- Bí tích Thánh Thể hoàn tất việc khai tâm Kitô giáo. Những người đã được nâng lên hàng tư tế vương giả nhờ bí tích Rửa Tội, và được nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô cách sâu xa hơn nhờ bí tích Thêm Sức, nay nhờ bí tích Thánh Thể được tham dự vào chính hy tế của Chúa cùng với toàn thể cộng đoàn.
Bài Ðọc I: Cv 6, 1-7
“Họ chọn bảy người đầy Thánh Thần”.
Bài trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, số môn đồ gia tăng, nên xảy ra việc các người Hy-lạp kêu trách các người Do-thái, vì trong việc phục vụ hằng ngày, người ta khinh miệt các bà goá trong nhóm họ. Nên Mười hai Vị triệu tập toàn thể môn đồ đến và bảo: “Chúng tôi bỏ việc rao giảng lời Chúa mà lo đi giúp bàn, thì không phải lẽ. Vậy thưa anh em, anh em hãy chọn lấy bảy người trong anh em có tiếng tốt, đầy Thánh Thần và khôn ngoan, để chúng tôi đặt họ làm việc đó. Còn chúng tôi, thì sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ lời Chúa”.
Cả đoàn thể đều tán thành lời các ngài, và chọn Têphanô, một người đầy đức tin và Thánh Thần, và chọn Philipphê, Prôcô, Nicanô, Timon, Parmêna, và Nicôla quê ở Antiôkia. Họ đưa mấy vị đó đến trước mặt các Tông đồ. Các ngài cầu nguyện và đặt tay trên các vị đó.
Lời Chúa lan tràn, và số môn đồ ở Giêrusalem gia tăng rất nhiều. Cũng có đám đông tư tế vâng phục đức tin.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp: Lạy Chúa, xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con, như chúng con đã trông cậy Chúa.
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Người hiền đức, hãy hân hoan trong Chúa! Ca ngợi là việc của những kẻ lòng ngay. Hãy ngợi khen Chúa với cây đàn cầm, với đàn mười dây, hãy xướng ca mừng Chúa.
Ðáp: Lạy Chúa, xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con, như chúng con đã trông cậy Chúa.
Hoặc đọc: Alleluia.
2) Vì lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng Chúa.
Ðáp: Lạy Chúa, xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con, như chúng con đã trông cậy Chúa.
Hoặc đọc: Alleluia.
3) Kìa Chúa để mắt coi những kẻ kính sợ Người, nhìn xem những ai cậy trông ân sủng của Người, để cứu gỡ họ khỏi tay thần chết, và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn.
Ðáp: Lạy Chúa, xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con, như chúng con đã trông cậy Chúa.
Hoặc đọc: Alleluia.
Bài Ðọc II: 1 Pr 2, 4-9
“Anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả”.
Bài trích thư thứ nhất của Thánh Phêrô Tông đồ.
Anh em thân mến, khi đến cùng Chúa là tảng đá sống động, bị người ta loại bỏ, nhưng đã được Thiên Chúa tuyển chọn và tôn vinh, chính anh em như những tảng đá sống động, xây dựng toà nhà thiêng liêng, chức vụ tư tế thánh thiện, để hiến dâng của lễ thiêng liêng đáng Thiên Chúa chấp nhận nhờ Ðức Giêsu Kitô. Vì thế, có lời Thánh Kinh rằng: “Ðây Ta đặt tại Sion tảng đá góc tường, được tuyển chọn và quý giá, ai tin Người, sẽ không phải hổ thẹn”. Vậy, vinh dự cho anh em là những kẻ tin; nhưng đối với những kẻ không tin, thì tảng đá mà thợ xây loại bỏ, đã trở thành đá góc tường, đá vấp ngã và đá chướng ngại cho những kẻ chống lại và không tin lời Chúa, và số phận của họ là thế. Còn anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa, để rao giảng quyền năng của Ðấng đã gọi anh em ra khỏi tối tăm mà vào ánh sáng kỳ diệu của Người.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống; không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”. – Alleluia.
Phúc Âm: Ga 14, 1-12
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không, Thầy đã nói với các con rồi; Thầy đi để dọn chỗ cho các con. Và khi Thầy đã ra đi và dọn chỗ cho các con rồi, Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó. Thầy đi đâu, các con đã biết đường rồi”. Ông Tôma thưa Người rằng: “Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi?” Chúa Giêsu đáp: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ các con biết và đã xem thấy Người”. Philipphê thưa: “Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha, và như thế là đủ cho chúng con”. Chúa Giêsu nói cùng ông rằng: “Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy ư, Philipphê? Ai thấy Thầy là xem thấy Cha, sao con lại nói “Xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha”? Con không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy ư? Những điều Thầy nói với các con, không phải tự mình mà nói, nhưng chính Cha ở trong Thầy, Ngài làm mọi việc. Các con hãy tin rằng Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy. Ít ra các con hãy tin vì các việc Thầy đã làm. Thật, Thầy bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha”. Ðó là lời Chúa.
Sau đây là những lời quan trọng nhất của Chúa Giêsu với các môn đệ. Ngài biết những điều xảy ra cho Ngài sẽ ảnh hưởng đến các ông, vì thế Ngài trấn an trước để các ông không bị xao xuyến khi những biến cố đó xảy ra. Ngài cũng nói rõ: Thầy sẽ ra đi. Đi đâu? Thầy đi dọn chỗ cho anh em… Anh em biết đường rồi”.
Tôma nhanh miệng hỏi: “Thầy đi đâu, chúng con làm sao biết đường?” Câu hỏi của Tôma đòi buộc Chúa phải nói rõ hơn và nhờ đó chúng ta biết Ngài quan trọng như thế nào đối với chúng ta: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống”. Nếu Thầy là con đường thì chúng ta chỉ cần đi trong con đường đó và con đường này sẽ dẫn đến Chúa Cha, vì không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy. Ngài là con đường duy nhất dẫn đến Chúa Cha là nguồn mạch mọi ơn phước, là hạnh phúc muôn đời của chúng ta. Đi trong con đường của Ngài tức là tuân giữ mọi điều Ngài dạy, là tuân giữ lời Ngài. Đi trong con đường của Ngài, chúng ta sẽ không lầm lạc vì chính Ngài là sự thật. Chỉ có Ngài mới là sự thật. Những gì chúng ta gọi là sự thật chỉ là những tia sáng phát ra từ sự thật bất biến là Ngài. Và Ngài cũng nói: “Sự thật giải thoát anh em”. Đúng thế, chỉ có sự thật mới đưa chúng ta đến tự do và bình an. Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy giả dối, chúng ta không biết đâu là thật đâu là giả. Sự giả dối gần như chế ngự tất cả. Con người hôm nay chỉ biết lợi nhuận và tìm hết mọi cách, kể cả những sự giả dối để tăng lợi nhuận.
Chỉ có Chúa Giêsu là sự thật bất biến mà thôi. Chúng ta hãy hãnh diện vì chúng ta là con cái của sự thật. Hãy rũ bỏ tất cả những gì gian dối trong chúng ta, vì chúng ta là nhân chứng của sự thật. Chúng ta không thể rập theo thói thế gian như thánh Phaolô đã căn dặn. Chúng ta là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người. Đó là ân huệ cao quí Chúa dành cho chúng ta. Đừng đánh mất những gì Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Hãy hiên ngang chứng tỏ mình là dân Chúa bằng mọi hành vi tốt đẹp trong sáng của mình. Và như thế, chúng ta sẽ lãnh nhận được phần thưởng vô giá là sự sống, là Chúa Giêsu, vì Ngài chính là sự sống, sự sống thật, sự sống vĩnh cửu. Sự sống này chúng ta lãnh nhận từ sự phục sinh của Chúa. Ngài sống lại và sự sống của Ngài được thông ban cho chúng ta khi chúng ta được tái sinh nơi giếng rửa tội. Hơn thế nữa, Ngài vẫn sống với chúng ta khi cho chúng ta ăn lấy Ngài, nuốt Ngài vào trong chúng ta. Đây là ân huệ trên hết mọi ân huệ. Chúng ta có ý thức được hồng ân vô giá này không?
Ăn lấy Ngài, chúng ta thành một với Ngài. Chúng ta sống bằng sự sống của Ngài. Chúng ta thở cùng một nhịp với Ngài, cùng một nhịp tim với Ngài Chúng ta được thánh hoá. Mọi hành động cử chỉ của chúng ta trở nên hành động cử chỉ của Ngài. Chúng ta không thể tưởng tượng được hồng ân này quí giá như thế nào. Hãy tạ ơn và mãi mãi tạ ơn. Giáo Hội luôn bảo chúng ta như thế.
Philipphê nài xin Ngài cho chúng ta biết Chúa Cha và nhờ đó, Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta một mạc khải căn bản. Chúa Giêsu với Chúa Cha là một. Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Chúa Cha ở trong Thầy và Thầy ở trong Chúa Cha. Các môn đệ sống với Chúa suốt bao nhiêu năm vẫn chưa biết Ngài, vì Ngài sống như con người. Giờ đây các ông mới biết Ngài, nguồn gốc thần linh của Ngài. Chúng ta cũng chưa biết Ngài. Chúng ta chỉ biết Ngài qua Kinh Thánh, qua các bí tích, qua Giáo Hội. Vì thế, chúng ta dễ quên Ngài. Cuộc sống trần gian chiếm gần hết thì giờ trí óc chúng ta, làm cho chúng ta chỉ chú ý đến vấn đề trần gian mà quên đi sự sống thần linh Chúa ban cho chúng ta. Mấy người trong chúng ta sống cho Chúa, yêu mến Chúa như Chúa đáng được yêu?
Hãy nhìn lại tâm hồn chúng ta. Chúng ta có tin thực sự không? Niềm tin của chúng ta có ảnh hưởng gì đến cuộc sống hôm nay của chúng ta không? Chúng ta yêu Chúa như thế nào? Hãy làm mọi việc vì yêu chứ không vì lợi nhuận. Chúng ta hãy biết rằng cuộc sống hôm nay chuẩn bị cho cuộc sống mai sau, và cuộc sống mai sau chính là Chúa Giêsu và tình yêu của Ngài. Mỗi hành động làm vì yêu mến Chúa, dù nhỏ nhặt đến đâu cũng có một giá trị vô biên.
Lm. Đaminh Lê Minh Cảnh
Con đường Giêsu, con đường tình yêu
Trên tờ báo Thanh Niên số ra ngày 30/4/1996, có đăng bài viết về chuyện “Sài-gòn đổi tên đường”. Vì ở Sài-gòn lúc bấy giờ có khoảng 100 con đường bị trùng tên nhau và 300 con đường chưa có tên, chỉ mang con số (như đường số 1, đường số 2, số 3…v.v).
Có con đường được phục hồi lại cái tên cũ (trước năm 75), như đường Alexandre de Rhodes, gần nhà thờ Đức Bà (Alexandre de Rhodes là tên của một linh mục người Pháp, có công sáng tạo ra chữ Quốc ngữ như tiếng Việt của ta ngày nay).
Con đường Nguyễn Hậu, được thay thế bằng cái tên của Đức cố Tổng Giám Mục Phaolô Nguyễn Văn Bình (Hiện nay là con đường trưng bày các loại sách cũ và mới rất đẹp).
Nhân dịp nhắc đến “những con đường”, tâm trí ta có thể tượng tượng ra những bước chân vội vả của khách bộ hành qua lại, cũng như sự tấp nập của những con người đang hối hả chạy đua với thời gian, góp phần làm bon chen thêm cho cuộc sống. Con đường cuộc đời có rất nhiều ngã rẽ, đôi khi nó hấp dẫn và đầy dãy những quyến rủ khiến cho lòng ta dễ bị rơi vào “hố sâu tội lỗi” của ma quỉ, của thế gian lúc nào chẳng hay.
May mà ta vẫn còn có một con đường thiêng liêng nội tâm, xem ra an toàn cho phần hồn của mình, vì không hề có sự bon chen hay cạnh tranh nào.
Tuy nhiên, con đường thiêng liêng khá mơ hồ, bởi lối đi của nó rất trừu tượng, như lời Chúa Giêsu đã nói: “Chúa chính là con đường cho ta bước đi…”. Và “không ai có thể đến được với Chúa Cha, nếu không đi theo con đường mang tên Giêsu.”
Hay nói một cách bình dân cho dễ hiểu rằng là: Con đường thiêng liêng là con đường tiến về Thiên Đàng, hoàn toàn vượt quá khả năng của ta. Cho nên, ai muốn đi trên con đường này, cũng cần phải có người rành đường hướng dẫn để ta không bị lầm đường lạc lối. Và Người rành đường nhất không ai khác, chính là Chúa Giêsu, bởi vì: Ngài từ trời ngự xuống và Ngài đã giới thiệu: “Ngài là Đường, là sự thật và là sự sống”.
Theo Tin Mừng Thánh Gioan thuật lại, ta nghe Chúa Giêsu đã hứa, một lời hứa vô cùng dễ thương rằng là: “Thầy sẽ về Nhà Cha Thầy trước, để chuẩn bị sẵn chỗ cho các con, để Thầy ở đâu, các con cũng sẽ ở đó với Thầy.”
Qua lời hứa đó, bỗng dưng, ta cảm thấy “Nhà Cha” trở thành một điểm đến khá thú vị và “Nước Trời” giống như “Một lối đi về” có phần hấp dẫn cho một kiếp người, như Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn diễn tả trong bài hát “Một cõi đi về” mang nỗi niềm da diết khôn nguôi: “Bao nhiêu năm rồi, còn mãi ra đi, Đi đâu loanh quanh, cho đời mỏi mệt. Trên hai vai ta, đôi vầng nhật nguyệt, Rọi suốt trăm năm, một cõi đi về.”
Vâng, “Một cõi đi về” theo cái nhìn của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, có vẻ dài lê thê như vô tận, với những bước chân rả rời. Điều đó, cũng không khác gì mấy so với con đường Giêsu cũng lắm chong gai và nhiều vất vả.
Con đường mang tên Giêsu nhiều nỗi gian truân, vì đây là con đường phục vụ, chứ không phải là con đường được người khác phục vụ. Chính vì thế, ai muốn đi con đường này, người đó phải có tinh thần yêu thương và phục vụ người khác, nhất là những người nghèo khổ, và bất hạnh.
Khi nhắc đến tinh thần yêu thương người nghèo, tôi nghĩ cũng nên nhắc đến một vị đáng kính đối với mỗi người Công giáo chúng ta, đó là Đức Giáo Hoàng Phanxicô.
Chúng ta biết vào ngày 17/12/2013, là ngày sinh nhật 77 tuổi của Ngài. Ngài đã tổ chức một bữa tiệc sinh nhật “đơn giản, nhưng rất ấn tượng”. Không nhạc kèn đình đám, khách mời không giàu sang phú quý, thức ăn không cao lương mỹ vị. Đức Giáo Hoàng chỉ mời có ba người vô gia cư sống trên đường phố ngay trước cổng Vatican: Một người Cộng hoà Czech, một người Ba Lan và một người Slovakia, đến dự sinh nhật của ngài.
Theo tờ báo L’osservatore Romano của Vatican cho biết: Cả ba người nghèo này đều rất ngạc nhiên khi được Đức Giáo Hoàng mời dự sinh nhật. Trong sự hãnh diện, họ mang món quà mừng sinh nhật cho ngài là một bó hoa hướng dương để tỏ lòng yêu quý và kính trọng.
Ngoài ba người đó ra, Đức Giáo Hoàng có mời vài người giúp việc ở Vatican, để tạo ra “một bầu khí gia đình đầy yêu thương”.
Qua bữa tiệc sinh nhật đơn sơ như tô thêm nét đẹp của sự giản dị, thân thiện và đầy tình thương của Đức Giáo Hoàng Phanxicô dành cho người nghèo. Có thể nói rằng hình ảnh của Chúa Giêsu nghèo khó, đơn hèn ngày xưa, được diễn tả lại nơi con người của Đức Giáo Hoàng Phanxicô: Đơn sơ trong cách sống, khiêm nhường trong cách phục vụ, và yêu thương trong mọi việc làm, nhất là đối với những người nghèo khổ.
Là người Kitô hữu, ta nên ý thức rằng con đường mà Đức Giáo Hoàng đang đi, chính là con đường mang tên Giêsu với tinh thần yêu thương phục vụ, cũng chính là con đường mời gọi mỗi người chúng ta bước lên, cùng song hành đi tới. Vì đó là con đường duy nhất, dẫn ta tiến vào Nhà Cha trên trời, nơi mà Chúa Giêsu đã đi trước dọn chỗ và chờ đợi ta đến, để cùng hưởng niềm vui hạnh phúc vĩnh cữu với Ngài.
Nguyện xin Chúa Giêsu Phục Sinh giúp cho mỗi người chúng ta biết sắp xếp mọi công việc bận rộn trong cuộc sống, để nhẹ nhàng thanh thoát, ta bước theo con đường mang tên Giêsu, với với tâm hồn thật bình an, để cảm nhận được niềm hạnh phúc Nước Trời vẫn đang hiện diện trong cuộc sống này. Amen.
Lm. Tôma-Thiện Hưng
CẦU NGUYỆN VÀ LÀM VIỆC CỦA NGƯỜI KITÔ HỮU
Chúng ta vừa nghe lời chứng về hoạt động của Chúa Thánh thần trong Giáo hội ngay từ khởi đầu. Các thánh Tông đồ là những người đầy Thánh thần đã loan báo Tin mừng phục sinh với nội dung nền tảng như sau: Chúa Giêsu thành Nadarét là người được Thiên Chúa sai đến để loan báo lời Thiên Chúa và làm các phép lạ nhân danh Chúa. Ngài đã chịu chết treo trên thập giá và ngày thứ ba, Thiên Chúa đã phục sinh Ngài từ cõi chết bằng sức mạnh Thánh thần, Ngài đã lên trời và ngự bên hữu Chúa Cha và đặt Ngài làm Chúa. Lời loan báo ban đầu này được gọi là Kerygma đã được các tông đồ loan báo cho muôn dân trong sức mạnh Thánh thần. Nhiều người đã nghe, đã tin và đã lãnh nhận phép Rửa nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh thần. Những con người Kitô hữu này tập họp lại thành cộng đoàn Hội thánh. Họ đặt mọi sự làm của chung và được mọi người yêu mến. Những người đón nhận đức tin không chỉ là những người Do thái bản xứ mà còn thêm những người gốc Do thái đang sống ngoài biên giới Palestine. Những người Do thái bản xứ là những người sống theo các tập tục văn hóa bản xứ như nói tiếng Do thái gọi là tiếng Aram, có bộ Kinh thánh bằng tiếng Aram, tham dự các sinh hoạt tôn giáo trong các hội đường trong nước; còn những người gốc Do thái gọi là Do kiều. Họ là những người sống theo các tập tục văn hóa Hy lạp như: nói tiếng Hy lạp, có bộ Kinh thánh bằng tiếng Hy lạp, gọi là Bản 70 và tham dự các sinh hoạt tôn giáo trong các hội đường nằm ngoài biên giới đất nước Palestine.
Số Kitô hữu ngày càng thêm đông, làm phát sinh những vấn đề trong cộng đoàn Hội thánh và là nguyên nhân gây chia rẽ giữa các môn đệ Chúa Kitô. Nguyên nhân đó là: có những lời phàn nàn của các môn đệ thuộc nhóm người nói tiếng Hy lạp đối với nhóm người nói tiếng Do thái, vì khi phân phát lương thực hàng ngày cho các quả phụ của nhóm họ đã bị bỏ quên (Cv 6,1). Hay nói cách khác, vấn đề cụ thể là: cộng đoàn Do kiều chúng tôi cũng đã đóng góp tất cả những gì chúng tôi có để làm của chung để rồi giờ đây các bà góa của chúng ta lại không được chu cấp các thực phẩm và những thứ cần thiết còn nhóm của các anh thì lại được chu cấp đầy đủ. Đụng tới các quyền lợi chính đáng là chuyện lớn chứ không phải chuyện nhỏ đâu anh chị em! Vấn đề không chỉ là khâu tổ chức và điều hành mà còn là sống công bằng và yêu thương những người nghèo khổ, yếu đuối và không nơi nương tựa như Chúa Giêsu đã dạy nữa. Các tông đồ đã lắng nghe lời kêu cứu và đã họp lại để giải quyết vấn đề cấp thiết này. Các tông đồ đã giải quyết như thế nào đây? Các ngài thấy mình đang đứng trước yêu cầu phải đặt việc loan báo Lời Chúa lên hàng đầu, theo đúng lệnh truyền của Chúa Giêsu – Các con hãy lo loan báo Tin mừng cho muôn dân (x. Mc 16, 15-16), nhưng đồng thời cũng đứng trước đòi hỏi cấp thiết đặt ra cho Giáo hội, là phải nghiêm túc thi hành bổn phận bác ái và công bằng, nghĩa là giúp đỡ các quả phụ, người nghèo, đem lòng yêu thương đến với những anh chị em đang trong cảnh ngặt nghèo, đáp lại lệnh truyền của Chúa Giêsu : « Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con » (Ga 15, 12-17). Các tông đồ phải sống hai thực tại trong Giáo hội – loan báo Tin mừng, việc tối thượng của Chúa và thực thi công bình bác ái cụ thể. Hai thực tại này làm nảy sinh những khó khăn và phải tìm giải pháp sao cho mỗi thực tại đều có vị trí riêng nhưng không bao giờ được tách rời mà phải đan xen với nhau. Các tông đồ đã quyết định rất sáng suốt: Các ngài nói: « Chúng tôi mà bỏ việc rao giảng Lời Thiên Chúa để lo việc ăn uống, là điều không phải. Vậy, thưa anh em, anh em hãy tìm trong cộng đoàn bảy người được tiếng tốt, đầy Thần khí và khôn ngoan, rồi chúng tôi sẽ cắt đặt họ làm công việc đó. Còn chúng tôi, chúng tôi sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa » (Cv 6, 2-4).
Đó là nguồn gốc của chức thánh Phó tế trong Hội thánh. Trước năm 1972, thầy phó tế còn gọi là thầy Sáu. Tại sao gọi là thầy Sáu? Thưa, trong thời gian học tại Đại chủng viện, thầy đã được lãnh nhận 5 chức nhỏ: cắt tóc, giữ cửa, đọc sách, trừ quỷ và giúp lễ. Sau năm 1972, các chức nhỏ được thay thế với các tác vụ đọc sách và giúp lễ. Hiện nay, tại Đại chủng viện thánh Giuse Sài gòn, các thầy sẽ lãnh nhận hai tác vụ này vào năm Thần học II và III tương đương với năm thứ 5 và thứ 6.
Tiêu chí lựa chọn các thầy Phó tế của Giáo hội là những người này không chỉ có tiếng tốt mà còn đầy Thần khí và khôn ngoan, tức họ không chỉ là những người biết tổ chức « làm » mà còn phải « làm » trong tinh thần đức tin và dưới ánh sáng của Chúa, với lòng khôn ngoan và theo phận sự của mình, những phận sự mang tính thực tế đồng thời cũng mang chiều kích thiêng liêng. Công bằng và bác ái không chỉ là các hoạt động xã hội nhưng còn là những hoạt động có chiều kích thiêng liêng, được thực hiện trong ánh sáng của Chúa Thánh thần. Vì vậy có thể nói, các tông đồ đã giải quyết tình huống này đầy ý thức trách nhiệm khi đưa ra quyết định chọn bảy người. Các ngài cầu nguyện xin Chúa Thánh thần ban sức mạnh rồi đặt tay trên họ để họ được thánh hiến cách riêng cho tác vụ phó tế lo việc bác ái. Phần các tông đồ, các ngài chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa. Như thế cho thấy, việc cầu nguyện, lắng nghe Lời Chúa và hoạt động thường ngày, thực thi bác ái không đối chọi nhau. Việc này làm chúng ta nhớ lại câu chuyện hai chị em Maria và Macta. Khi thầy trò Chúa Giêsu đến nhà, cô chị Macta bất tất lo việc tiếp đãi còn cô em Maria thì cứ ngồi dưới chân Chúa và nghe lời Ngài dạy. Khi cô Macta phàn nàn về cô em đã không phụ một tay, thì Chúa Giêsu bảo: « Marta, Marta ! con băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá ! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi » (Lc 10, 41-42) cũng như các tông đồ quyết định : « Còn chúng tôi, chúng tôi sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa » (Cv 6, 4), cho thấy cần phải ưu tiên cho Thiên Chúa.
Đây là một lời nhắc nhở quí giá đối với chúng ta ngày nay vốn quen đánh giá mọi việc theo tiêu chí năng suất và hiệu quả. Đoạn cách Công vụ tông đồ này nhắc chúng ta về tầm quan trọng của làm việc – do đó rõ ràng đã đưa đến việc thiết lập một tác vụ thực sự – về sự dấn thân tinh thần trách nhiệm và hết lòng tận tụy trong những hoạt động hàng ngày; đồng thời cũng nhắc chúng ta cần phải có Chúa hướng dẫn, soi sáng, thêm sức và ban niềm hy vọng. Nếu không trung thành với việc cầu nguyện hàng ngày, hoạt động của chúng ta trở nên trống rỗng, mất ý nghĩa, vô hồn, chỉ còn là chủ nghĩa hoạt động đơn thuần, cuối cùng khiến chúng ta không thể hài lòng mãn nguyện. Trong truyền thống Kitô giáo, có một lời kinh đầy ý nghĩa được đọc trước khi làm việc: cúi xin Chúa sáng soi cho chúng con được biết việc phải làm, và khi làm, xin Chúa giúp đỡ cho mỗi kinh, mỗi việc chúng con làm, từ khởi sự cho đến hoàn thành đều bởi ơn Chúa. Amen. Mỗi bước đi của chúng ta, mỗi việc chúng ta làm trong cuộc đời, ngay cả trong Giáo hội, cũng phải đặt trước mặt Chúa, dưới ánh sáng của Lời Chúa.
Tóm lại, khi phải đối diện với những vấn đề trong cuộc sống hàng ngày, người Kitô hữu phải cầu nguyện xin ơn Chúa soi sáng để qua những việc chúng ta làm, chúng ta làm theo thánh ý Chúa. Đó chính là việc loan báo Tin mừng trong Thánh thần. Nguyện xin Mẹ Maria, là người luôn làm theo thánh ý Chúa trong cuộc đời của Mẹ, xin Mẹ chuyển cầu cho chúng con cũng luôn tìm kiếm và làm theo thánh ý Chúa trong từng việc nhỏ hàng ngày. Amen.
Tôma Lê Duy Khang
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu khẳng định với các môn đệ, mà cụ thể là thánh Tôma: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” sau khi thánh Tôma hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?”
Chúng ta biết, hầu như không ai trong cuộc đời này dám khẳng định mình là con đường là sự thật và là sự sống, có chăng chỉ dám nhận mình là người mở đường mà thôi.
Trong Phật Giáo có kể một tích như thế này: sau khi Đức Phật thành đạo, nghĩa là sau khi ngài đã ngộ ra được con đường thoát khỏi đau khổ bằng cách diệt dục, ngài nói một câu: “Này thiện nam tử, giáo lý của ta ví như ngón tay chỉ mặt trăng, nhớ rằng ngón tay không phải là mặt trăng; vì thế, cần phải khéo rời ngón tay để nhìn thẳng vào mặt trăng. Giáo lý của ta cũng vậy, dùng nó để đạt Chân Lý. Nhưng nó không phải là chân lý vô thượng, cần phải khéo rời bỏ ngón tay để có thể đạt chân lý.” Nghĩa là Đức Phật chỉ là người hướng dẫn con đường giúp giải thoát khỏi đau khổ, chứ ngài không phải là Đấng Cứu độ, không phải là Chân Lý tối thượng.
Trong Kitô giáo của chúng ta cũng có câu chuyện của Gioan tẩy giả, Chúa Giêsu đã khẳng định con người của Gioan Tẩy Giả: “Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả” (Mt 11,11).
Thế nhưng khi Gioan Tẩy Giả rao giảng, ông chỉ dám nhận mình là tiếng hô trong hoang địa, và khi được người khác hỏi ông có phải là Đấng Kitô không, thì ông nói: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa” (Lc 3,16). Nghĩa là ông chỉ là người dọn đường để người ta đến và đi trên con đường thật sự chính là con đường Giêsu.
Hiểu được như thế, chúng ta thấy Chúa Giêsu chính là con đường, là sự thật và là sự sống thật sự, nên chúng ta được mời gọi tin tưởng vào Chúa, nhất là những gì Chúa đã hứa, mà cụ thể là trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã hứa với các môn đệ: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.”
Nhưng để hưởng được điều Chúa Giêsu đã hứa, chúng ta được mời gọi phải sống đức tin trong cuộc đời của mình, bởi vì chúa nói: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21).
Và Chúa nói thêm: “Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá. Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành” (Mt 7, 24-27).
Hiểu được như thế, chúng ta thấy, khi thực hành Lời Chúa dạy, là sống tốt lành thánh thiện, thì chắc chắn chúng ta được thừa hưởng lời hứa của Chúa.
Bên cạnh đó, khi chúng ta sống tốt lành thánh thiện, chúng ta còn là người dọn đường để cho người khác đến với Chúa là con đường, là chân lý, là sự sống thật sự.
Có một câu chuyện mang tên “Ông có phải thượng đế không?”
Mưa bão lớn, gây lũ lụt và lở đất tại nhiều vùng của Brazil. Giữa đêm, một phụ nữ trở dạ, sắp sinh, đúng lúc chồng vắng nhà, chỉ có đứa con trai 5 tuổi đang ở bên cạnh cô. Người phụ nữ đã gọi điện cầu cứu cảnh sát. Tuy nhiên, toàn bộ xe và nhân viên công lực đã được điều động đi giải cứu người dân bị thiên tai. Cảnh sát đành phải gọi điện cho một chức sắc địa phương, nhờ giúp đỡ. Vị này đồng ý ngay, ông nhanh chóng đưa người sản phụ đến bệnh viện. Xong việc, vị chức sắc mới nhớ đến cậu bé 5 tuổi đang phải ở lại nhà một mình. Chưa yên tâm rời bệnh viện cho đến khi sản phụ mẹ tròn con vuông, ông đành gọi điện cho một người quen, nói rằng phải lập tức đưa chú bé đến nơi an toàn, vì bão lũ ngày càng dữ dội. Bị đánh thức giữa đêm, người này miễn cưỡng ra khỏi chiếc giường êm ái và ấm áp, uể oải lái xe đến nhà cậu bé, vừa đi vừa nguyền rủa thời tiết. Sau một hồi tìm kiếm, cuối cùng anh cũng tìm được nhà của cậu bé, đưa cậu lên xe. Sau khi lên xe, cậu bé cứ nhìn chằm chằm vào người đến đón mình. Hồi lâu, cậu bé rụt rè hỏi: “Thưa ông, ông có phải là Thượng đế không?” Người đàn ông giật mình: “Bé con, sao lại gọi chú là Thượng đế?” Cậu bé trả lời rất nghiêm túc: “Khi mẹ đi bệnh viện, mẹ bảo con phải dũng cảm ở nhà. Mẹ nói: “Con ơi, lúc này chỉ có Thượng đế mới cứu được chúng ta thôi!” Khuôn mặt người đàn ông đỏ ửng lên. Anh hổ thẹn vì mới đó vẫn bực bội nghĩ mình bị làm phiền… Anh lúng túng xoa đầu chú bé và nói: “Con à, chú không phải là Thượng đế; chú chỉ là một người bạn của con thôi!”
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết sống tốt lành, làm những việc đơn sơ bổn phận để nhiều người nhận biết Chúa, để tất cả chúng ta được thừa hưởng lời hứa của Chúa. Amen.
Học hỏi Phúc âm: Chúa nhật 5 Phục sinh năm A
1 Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. 2 Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em.3 Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.4 Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi.”
5 Ông Tô-ma nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường? “6 Đức Giêsu đáp: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.7 Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người.”
8 Ông Phi-líp-phê nói: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện.”
9 Đức Giêsu trả lời: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha”?
10 Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình.
11 Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm.12 Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha.
Câu hỏi:
- Trong Tin mừng Gioan Đức Giêsu xao xuyến mấy lần ? Đọc Ga 11,33; 12,27; 13,21. Các môn đệ xao xuyến mấy lần ? Đọc Ga 14,1.27. Tại sao các môn đệ xao xuyến ? Đọc Ga 13,21-38; 14,27-29.
- Đọc Ga 14,1-3. Đức Giêsu đã nói gì để giúp họ hết xao xuyến ?
- Đọc Ga 14,2-4. Đức Giêsu đã dùng những hình ảnh cụ thể nào để nói về những thực tại thiêng liêng ở đời sau ? Dựa vào đoạn văn này, bạn hãy vẽ lại cuộc hành trình của Đức Giêsu.
- Đọc Ga 14,6. Đức Giêsu tự nhận mình là Con Đường và ai muốn đến với Thiên Chúa đều phải qua Con Đường này. Tại sao Đức Giêsu dám khẳng định mình như thế ?
- Đọc Ga 14,6. Tại sao Đức Giêsu tự nhận mình là Sự Thật ? Đọc Ga 1,14.17.18; 8,26.28; 12,49; 14,10.
- Đọc Ga 14,6. Tại sao Đức Giêsu nhận mình là Sự Sống ? Đọc Ga 1,4; 5,26; 6,39-40.51.57.68; 11,25.
- Ai biết Thầy Giêsu là biết Cha của Thầy, ai thấy Thầy Giêsu là thấy Chúa Cha (Ga 14,7.9). Đọc Đọc Ga 1,14; 5,19-20; 8,29; 12,44-45;
- Đọc Ga 14,10. Bạn nghĩ gì về sự kết hiệp mật thiết giữa Thầy Giêsu và Chúa Cha ? Ở lại trong nhau, điều đó nghĩa là gì ? Đọc Ga 10,30.38; 17,21.
GỢI Ý SUY NIỆM: Bạn nghĩ gì về những người tuy chưa biết Chúa Giêsu nhưng đã can đảm sống theo sự thật và bảo vệ sự sống ? Họ có hy vọng được hưởng ơn cứu độ không ?
PHẦN TRẢ LỜI:
- Trong Tin mừng Gioan, Đức Giêsu xao xuyến ba lần: trước cái chết của Ladarô (Ga 11,33), trước cái chết của chính mình (Ga 12,27) và trước sự phản bội của Giuđa (Ga 13,21). Các môn đệ xao xuyến hai lần (Ga 14,1.27). Có thể họ xao xuyến vì nhiều lý do: vì Thầy Giêsu báo một người trong nhóm sẽ nộp Thầy (Ga 13,21), vì Thầy loan báo Thầy sẽ đi đến một nơi mà họ không thể đến được (Ga 13,33.36), vì Thầy tiên báo Phêrô sẽ chối Thầy ba lần (Ga 13,38). Nói chung các môn đệ xao xuyến khi nghe Thầy báo tin sẽ ra đi, và báo về những vấp ngã nặng nề của hai môn đệ trong nhóm.
- Trước sự xao xuyến của các môn đệ, Đức Giêsu đã khuyên họ nên giữ vững niềm tin: “Anh em tin vào Thiên Chúa thì hãy tin vào Thầy” (Ga 14,1). Hơn nữa, Ngài bắt đầu cho họ biết rõ hành trình sắp tới của Ngài: về nhà Cha để dọn chỗ cho các môn đệ, rồi sẽ trở lại để đem họ về với Ngài, để Thầy trò chung sống với nhau (Ga 14,2-3). Như thế cuộc chia tay sắp tới chỉ có tính tạm thời, rồi Thầy trò lại có dịp sống bên nhau mãi mãi. Tương tự như thế, trong Ga 14,27-29 Thầy Giêsu cũng giúp các môn đệ hết xao xuyến bằng cách cho biết mình sẽ “đi đến cùng Chúa Cha” và sẽ “đến với họ” (Ga 14,28).
- Trong Ga 14,2-4 Đức Giêsu dùng những hình ảnh cụ thể để nói về những thực tại siêu nhiên. Ngài nói đến “nhà của Cha Thầy”, “chỗ ở” (monai), “chỗ” (topos), “đường” (hodos). Đó là những hình ảnh gợi lên thế giới mai sau, nhưng dĩ nhiên thiên đàng không phải là một toà nhà có nhiều tầng, với nhiều phòng nhỏ cho từng người. Qua Ga 14,2-3 ta thấy hành trình của Đức Giêsu sau khi hoàn tất sứ vụ Cha trao nơi trần gian: đi về nhà Cha trước để chuẩn bị chỗ cho các môn đệ, sau đó trở lại với các môn đệ để đưa họ về với mình, để Thầy trò sống mãi bên nhau. Như thế có thể nói, Đức Giêsu làm hai cuộc hành trình: Ngài là Thiên Chúa Con Một đã xuống thế làm người, sẽ chết, phục sinh và về lại nhà Cha. Sau đó Ngài sẽ trở lại để đưa các môn đệ về ở với Ngài trong nhà Cha.
- Trong Ga 14,6 Đức Giêsu nhận mình là Con Đường. Hơn thế nữa, Ngài còn nói: “Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy”. Như thế, để gặp được Thiên Chúa, để có được ơn cứu độ, không có con đường nào khác ngoài Con Đường Giêsu. Chỉ qua Con Đường này mà nhân loại đến được với Thiên Chúa. Đức Giêsu dám khẳng định như vậy, vì Ngài là Ngôi Lời xuống thế mang phận người (Ga 1,14). Ngài là Thiên Chúa (Ga 1,1), nhưng là Thiên Chúa Con Một của Thiên Chúa Cha (Ga 1,18). Chúa Cha muốn: “Tất cả những ai… tin vào Người Con thì có sự sống đời đời” (Ga 6,40), và muốn “thế gian nhờ (dia) Người mà được cứu độ” (Ga 3,17).
- Đức Giêsu là Con Một Thiên Chúa đầy tràn “ân sủng và sự thật” (Ga 1,14.17). Ngài là Đấng duy nhất thấy Thiên Chúa và ở ngay trong cung lòng Thiên Chúa (Ga 1,18). Khi làm người, Ngài đã luôn nói sự thật mà Ngài đã nghe được từ Thiên Chúa (Ga 8,26.28; 12,49-50; 14,10). Chính vì thế Ngài đã nhận mình là Sự Thật (Ga 14,6).
- “Nơi Ngôi Lời là sự sống và sự sống là ánh sáng cho loài người” (Ga 1,4). Ngôi Lời đã làm người nơi Đức Giêsu. Chúa Cha cho Ngài được “có sự sống nơi mình” (Ga 5,26) và Ngài có quyền cho người ta sống lại trong ngày sau hết (Ga 6,39-40). Đức Giêsu đã ban sự sống thân xác cho nhiều người (Ga 4,46-54; 5,1-9; 6,1-68; 9; 11), và nhất là sự sống đời đời (Ga 3,16; 6,58.68). Bởi đó Ngài tự nhận chính Ngài là Sự Sống (Ga 14,6).
- Ai biết Thầy cũng sẽ biết Chúa Cha (Ga 14,7). Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha (Ga 14,9). Vậy Đức Giêsu là hiện thân của chính Thiên Chúa trên trần gian. Gặp được Ngài là gặp được chính Thiên Chúa. Lời Ngài nói là lời của Thiên Chúa (Ga 8,28), việc Ngài làm là việc Thiên Chúa làm (Ga 5,19-20; 8,29; 14,10). Thiên Chúa Cha không phải là Đấng cao xa, không thể thấy, không thể chạm tới được, nhưng hiện diện gần gũi nơi Đức Giêsu. Hai lần Đức Giêsu nói: “Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy” (Ga 14,10-11).
- Đức Giêsu luôn ý thức mình là người được Cha sai. Ngài luôn sống tùy thuộc vào Cha là Đấng sai Ngài. Có sự gắn kết bền chặt giữa người được sai và Đấng sai mình, giữa Đức Giêsu là Con với Chúa Cha, đến nỗi “ai thấy tôi là thấy Đấng đã sai tôi” (Ga 12,45). “Chúa Cha ở trong tôi và tôi ở trong Chúa Cha” (Ga 10,38; 17,21). Sự ở trong này đến mức độ Đức Giê su có thể nói: “Chúa Cha và Tôi là một” (Ga 10,30).
Phụng vụ Lời Chúa: Chúa nhật 5 Phục sinh năm A
(Cv 6,1-7; 1Pr 2,4-9; Ga 14, 1-12)
NHƯ VIÊN ĐÁ SỐNG ĐỘNG
“Hãy lại gần Đức Kitô, viên đá sống động” (1Pr 2,4)
I. CÁC BÀI ĐỌC
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta trở nên như những viên đá sống động mà xây dựng ngôi nhà thiêng liêng trần thế – Giáo hội Chúa Kitô Phục sinh, và hướng lòng về ngôi nhà thiêng liêng đích thực trên trời – nhà Cha; trong đó Đức Giêsu Kitô là đường để ta đạt tới mục đích tối hậu này.
1. Bài đọc 1 (Cv 6,1-7)
Trong bài trích sách Công vụ Tông đồ, chúng ta nhận ra những bối cảnh khó khăn đầu tiên trong ngôi nhà của cộng đoàn các Kitô hữu sơ khai. Cộng đoàn này bao gồm những người Do Thái bản xứ nói tiếng Aram; một số khác là những người Do Thái sống trong các vùng Hy Lạp hóa và nói tiếng Hy Lạp. Hai nhóm người này, mặc dầu đều rất chân thành trong niềm tin vào Đức Giêsu Phục sinh, nhưng họ đã gặp phải những thách đố trước khi đạt đến một ý chung. Có vẻ như trong việc phân phát các lương thực hằng ngày, các bà góa nhóm Do Thái gốc được ưu tiên hơn so với các bà nhóm thuộc văn hóa Hy Lạp, là những người cảm thấy bị bỏ quên.
Để giải quyết vấn đề này, các Tông đồ đã triệu tập toàn thể các môn đệ và tiến hành việc phân chia công việc tông đồ. Họ vẫn duy trì cho mình trách nhiệm chính yếu, đó không phải thuộc về vật chất, mà về thiêng liêng. Họ nói: “Chúng tôi mà bỏ việc rao giảng Lời Thiên Chúa để lo việc ăn uống, là điều không phải” (Cv 6,2). Các Tông đồ là những người phải chăm lo cho việc cầu nguyện và tác vụ Lời Chúa, bởi đó là phận vụ chính yếu của Giáo hội.
Tuy nhiên, cũng có những trách vụ về vật chất cần phải làm. Vì thế các Tông đồ đề nghị “tìm trong cộng đoàn bảy người được tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn ngoan, rồi chúng tôi sẽ cắt đặt họ làm công việc đó” (Cv 6,3). Ở đây bản văn chưa dùng từ ‘phó tế’, nhưng chính họ là những người khởi đầu cho chức vụ phó tế ở cộng đoàn sơ khai.
Và như vậy, vấn đề đã được giải quyết và cộng đoàn Kitô hữu tiếp tục phát triển trong việc xây dựng ngôi nhà của Giáo hội, như lời của sách Công vụ: “Lời Thiên Chúa vẫn lan tràn, và tại Giêrusalem, số các môn đệ tăng thêm rất nhiều, lại cũng có một đám rất đông các tư tế đón nhận đức tin” (Cv 6,7).
2. Bài đọc 2 (1Pr 2,4-9)
Thánh Phêrô Tồng đồ đã viết trong thư thứ nhất của mình rằng, Giáo hội trước tiên, không phải là một tổ chức từ thiện, nhưng đúng hơn là “ngôi nhà thiêng liêng” (οἶκος πνευματικὸς) với nền móng là Đức Kitô, trong đó, mỗi Tông đồ là một “viên đá sống” (λίθοι ζῶντες). Đức Giêsu được xem như là “viên đá sống”, “đá gốc tường”, dù bị con người từ chối, nhưng lại được Thiên Chúa chọn và xem là quý giá (x.1Pr 2,4-6). Và tiếp theo, cũng chính viên đá ấy lại trở thành “viên đá làm cho vấp ngã” đối với những người không tin và không tuân thủ Lời Chúa. Chắc chắn xuyên suốt lịch sử Giáo hội, có thể có một vài hòn đá tách rời và đổ xuống, nhưng ngôi nhà Giáo hội vẫn mãi luôn đứng vững, vì luôn có Đức Giêsu là viên đá gốc tường.
3. Bài Tin Mừng (Ga 14, 1-12)
Bài Tin Mừng được trích từ những lời nói từ biệt của Chúa Giêsu trong buổi Tiệc ly, qua đó, Người nói sẽ đi dọn chỗ cho các môn đệ trong ngôi nhà của Chúa Cha và Người cũng mạc khải cho chúng ta về Chúa Cha.
Trước đó, Chúa Giêsu nói với các môn đệ về số phận bi đát đang đợi Người và về việc Người phải ra đi (x. Ga 13,33). Nghe vậy các môn đệ cảm thấy buồn rầu và sợ hãi. Nhưng Đức Giêsu đã bảo đảm với các ông và khuyên các ông hãy tin vào Chúa và tin vào Người, bởi chính Người sẽ đi dọn chỗ cho các ông trong “nhà của Cha tôi” (οἰκίᾳ τοῦ πατρός μου), sau đó Người sẽ trở lại và sẽ mang theo các ông và như thế Đức Giêsu và các môn đệ sẽ được ở cùng nhau (x. Ga 14,1-3).
Ở đây chúng ta thấy một hình ảnh như một gia đình rất thân thương, đó là Đức Giêsu sẽ đi dọn chỗ cho các môn đệ nơi nhà Cha Người. Nhưng dọn bằng cách nào ? Người dọn bằng những đau khổ, cuộc thương khó và sự phục sinh của Người. Rồi chúng ta cũng có thể hiểu rằng chỗ mà Chúa Giêsu dọn cho chúng ta nằm ngay trong chính thân thể khổ nạn và phục sinh của Người. Vì lẽ chúng ta được kể như là chi thể trong thân thể Đức Kitô, cho nên Người chuẩn bị cho chúng ta một chỗ trong thân thể ấy.
Trả lời cho nghi vấn của Tôma: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường ?”, Đức Giêsu đã hé lộ một trong những mạc khải trọn vẹn và mầu nhiệm hơn về bản thân Người: “Chính Thầy là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,5-6).
Ở đây chúng ta thấy rằng Đức Giêsu với chúng ta là tất cả: Người là cùng đích mà chúng ta phải đến, nhưng cũng là đường chúng ta đi để đạt tới đích đến. Vì thế, chúng ta phải bước theo Người như bước theo một con đường và bắt chước Người đi. Và chúng ta sẽ bắt chước được Người nếu chúng ta sống trong tình yêu thương, hiệp nhất.
Tiếp theo Đức Giêsu đã mạc khải cho chúng ta về Chúa Cha. Người nói: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9). Nếu chúng ta muốn biết Thiên Chúa, chúng ta phải chiêm ngắm Đức Giêsu, biết lắng nghe và bước theo Người.
Người còn nói thêm: “Ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha” (Ga 14,12). Rõ ràng là các môn đệ đã làm được nhiều việc hơn Đức Giêsu, vì Đức Giêsu trong cuộc sống trần thế của Người chỉ giới hạn ở vùng Palestin, và chỉ thỉnh thoảng Người mới đi ra một chút khỏi ranh giới này. Còn các tông đồ đã thực thi sứ vụ của mình ở nhiều nơi khác nhau. Và như thế những việc làm của chính Giáo hội Chúa cũng nhiều hơn Đức Giêsu.
Nhưng thực tế, việc làm của Giáo hội cũng chính là việc làm mà Đức Giêsu tiếp tục thực hiện, đó là việc làm của Đấng Phục Sinh. Bởi thế Người nói thêm: “bất cứ điều gì anh em nhân danh Thầy mà xin, thì Thầy sẽ làm” (Ga 14,13). Chính nhờ Đức Giêsu, là đường, sự thật và sự sống, chúng ta có thể làm được mọi sự, thậm chí là có thể đạt tới một đời sống kết hiệp với Chúa Cha.
Cũng như các tông đồ, chúng ta là những khí cụ, được mời gọi cụ thể hóa nơi đời mình những việc làm của Đức Giêsu. Trong đời sống gia đình, cộng đoàn, trong công việc hay bất cứ môi trường nào, chúng ta cần phải thực hiện những hoạt động thánh thiêng: là chầm chậm cải biến và xây dựng ngôi nhà thế giới này theo kế hoạch của Chúa Cha, nhờ lời cầu nguyện của chúng ta và qua sự kết hiệp với Đức Kitô trong tình yêu bao la của Người.
II. GỢI Ý SUY NIỆM
1. “Chúng tôi mà bỏ việc rao giảng Lời Chúa để lo việc ăn uống, là điều không phải” (Cv 6,2). Câu Kinh Thánh này gợi lại cho tôi hình ảnh và vai trò của Maria và Mátta trong một cộng đoàn gia đình Kitô hữu hôm nay. Vậy đang khi phải góp phần xây dựng cộng đoàn Kitô hữu của Đấng Phục sinh, tôi và những cộng sự của tôi có “chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi” (Lc 10,42) ?
2. “Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống mà xây nên ngôi nhà thiêng liêng” (1Pr 2,5). Là những chi thể trong một thân thể là ngôi nhà chung thiêng liêng, tôi được mời gọi nhìn lại và kiểm định xem tôi đã và đang là viên đá sống góp phần xây dựng và làm vững chắc cộng đoàn, hay tôi đang như là những viên đá to lớn nhưng lạnh lẽo và trơ trọi ?
3. “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6). Hành trình của tôi nơi quê hương trần thế có cùng đích là hướng về nhà Cha trên trời. Vậy đâu là vai trò của Đấng Phục sinh trong hành trình này của tôi ? Tôi có tin thật Đức Giêsu Kitô và cảm nghiệm được rằng Người vẫn đang yêu thương, đồng hành và nâng đỡ tôi mỗi ngày trong hành trình đức tin ?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Chúa Giêsu là “Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” đã đến để chỉ lối, và đi trước để dẫn đưa chúng ta đến với Thiên Chúa Cha là nguồn mạch sự sống và mọi ơn lành. Chúng ta hãy tạ ơn Chúa và tin tưởng dâng lời cầu nguyện.
1. “Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho các vị chủ chăn trong Hội Thánh luôn đầy khôn ngoan và Thánh Thần, để qui tụ và hướng dẫn mọi người trong bổn phận thờ phượng và tích cực xây dựng nước Chúa.
2. Chúa Giêsu nói: “Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho con người thời đại hôm nay biết tin nhận Đức Kitô Phục Sinh, để nhờ Người với Người và trong Người, tất cả được đón nhận ơn bình an và sức sống mới.
3. “Anh em là dòng giống được tuyển chọn, là dân riêng của Thiên Chúa.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi kitô hữu biết ý thức ơn gọi cao quý do bí tích Rửa tội, luôn nỗ lực tuyên xưng và làm chứng cho đức tin qua bổn phận và trong hoàn cảnh riêng của mình.
4. “Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy đã làm.” Chúng ta cùng cầu xin cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta ngày càng trưởng thành trong đức tin, và biết diễn tả đức tin ấy bằng một đời sống thấm nhuần yêu thương và dấn thân phục vụ theo gương Chúa.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, xin nhậm lời chúng con cầu nguyện và ban Thánh Thần giúp chúng con luôn vững bước trên hành trình đến với Thiên Chúa Cha. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.
https://tgpsaigon.net/bai-viet/phung-vu-loi-chua-chua-nhat-5-phuc-sinh-nam-a-60256