Ơn Gọi: Tại sao các Linh Mục cần phải chuyển xứ?

Có thể là hình ảnh về văn bản cho biết 'TẠI SAO CÁC LINH MỤC CẦN PHẢI CHUYỀN XỨ?'
Nhiều người không hiểu cứ nghĩ rằng, 1 Linh mục nào bị chuyển xứ, là do vị Linh mục đó có lỗi rất nặng nên bị Đức Giám mục phạt, thuyên chuyển đi nơi khác. Rồi người ha hả, kẻ khóc hu hu. Điều đó chỉ đúng ở 1 số trường hợp.
Còn chuyển xứ là chuyện rất bình thường trong đời sống Giáo hội. Giáo hội luôn luôn chuyển mình, tươi trẻ và mới mẻ.
Thường thì các Linh mục cứ 5 năm cần phải chuyển xứ 1 lần.
Có nhiều người nói vui rằng: Các Linh mục thường chỉ nhận của Đức Giám Mục “bài sai” chứ không phải “bài đúng”. Nhưng “bài sai” đa số lại là “bài đúng”.
Tại sao các Linh mục cần phải luân phiên chuyển xứ?
Để hiểu được vấn đề một cách rõ ràng thấu đáo, xin kính mời chúng ta hãy cùng nhau đọc kỹ và ngẫm sâu 3 câu chuyện sau đây:
👉👉👉CÂU CHUYỆN SỐ 1:
Một cha xứ kia đang coi sóc một giáo xứ lớn ở vùng quê. Tuy giáo xứ đó rất nề nếp đạo đức nhưng lại rất nghèo.
Trong thời gian coi xứ, thì cha đã kêu gọi cộng đoàn dân Chúa quyết tâm xây dựng 1 ngôi thánh đường nguy nga lộng lẫy.
Ngài cùng Ban hành giáo vào Nam ra Bắc để kêu gọi ân nhân đóng góp cho công trình thế kỷ.
Công trình đã tiến hành được gần 5 năm, chỉ còn 1 tháng nữa là sẽ hoàn thành và ngày khánh thành đã được định liệu.
Nhưng đùng một cái, Đức Giám mục giáo phận quyết định thuyên chuyển vị Linh mục đó đi xứ khác. Và việc thuyên chuyển sẽ được thực hiện ngay lập tức trong đầu tuần tới.
Vị Linh mục đó tuy mặt đượm buồn, nhưng vẫn vui vẻ xin vâng với Bài sai của Đức Cha Giáo phận.
Còn cộng đoàn giáo xứ thì thất vọng vô cùng. Họ cùng đông đảo kéo nhau lên để khiếu nại với Đức Cha:
Thưa Đức Cha, tại sao giáo xứ chúng con đang yên ổn, nề nếp, mọi sự đều tốt đẹp và chúng con đang bận rộn xây dựng công trình dở dang mà không để cha xứ ở lại? Hoặc nếu có chuyển, thì để cha ở lại cho đến khi khánh thành nhà thờ mới rồi đi đâu thì đi?
Đức Cha trả lời: Vậy tôi hỏi các ông bà nhé. Như các ông bà biết, tôi còn rất trẻ, lại đang coi sóc giáo phận rất quan trọng và bận rộn, nhưng nếu ngay bây giờ tòa thánh chuyển đi nơi khác hoặc Chúa gọi tôi về đời sau ngay lúc này, thì tôi có từ chối được không?
Hoặc nếu Chúa gọi các ông các bà về với Ngài ngay lúc này, rồi các ông các bà nói với Chúa rằng, con còn bận việc này quan trọng, việc kia dở dang, rồi có từ chối Chúa được không?
Vừa rồi có 1 vị Linh mục đang khỏe mạnh bình thường, Ngài đang sốt sắng dâng Thánh Lễ, thì Chúa lại gọi Ngài về đời sau ngay trên bàn Thánh.
Rồi có rất nhiều Linh mục và Giáo dân còn rất trẻ và làm việc rất hiệu quả, nhưng đã đột ngột được Chúa gọi ra đi về với Chúa trong thời gian vừa qua.
Vậy đó ! Thật ngỡ ngàng ! Nên phải sẵn sàng !
Chúng ta là con cái Chúa, chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng. Cứ Chúa gọi là ta lên đường. Chúa cứ sai ta đi đâu, ta vui vẻ sẵn sàng đi đấy. Ta không có quyền do dự, không có quyền tính toán, không có quyền chọn lựa, không có quyền chối từ.
Hơn nữa, cha xứ của bà con đã quá vất vả rồi. Công việc dang dở của ngài cần chấm dứt tại đây. Giờ là lúc ngài cần nghỉ ngơi để lấy lại sức.
Đừng quá lo lắng gì cả. Việc của Chúa, cứ để Chúa lo. Chúa định, rồi Chúa sẽ liệu cho mọi sự trở nên tốt đẹp.
Các Linh mục là những người luôn vâng lời theo tiếng Chúa gọi mọi lúc, mọi nơi, mọi thời, mọi hoàn cảnh.
Các Ngài được Chúa xức dầu tấn phong để đem Tin Mừng cho người nghèo khó, người đau khổ.
Trước khi thụ phong, các ngài đã thề hứa trước Chúa và cộng đoàn dân Chúa luôn tôn kính và vâng phục vô điều kiện Đức giám mục thay quyền Chúa ở trần gian.
👉👉👉CÂU CHUYỆN SỐ 2:
Một Linh mục kia còn rất trẻ, Ngài đang coi sóc 1 giáo xứ giàu có ở vùng thành phố.
Ngài có đầy đủ tiện nghi vật chất, nào nhà cao cửa rộng, nào cung điện nguy nga tráng lệ, nào vi tính tân thời, nào laptop hàng xịn, nào sơn hào hải vị, nào thuốc lá hàng hiệu, nào đam mê bóng đá, nào ô tô sang đẹp, nào tủ lạnh đời mới, nào điện thoại thông minh, nào du lịch đây đó, nào đồ tân đồ cổ, nào trên nhung dưới lụa, nào chim thú cây cảnh, nào động vật quý hiếm, nào sơn thủy hữu tình, nào thế rồng dáng phượng…
Đó là bề nổi. Còn bề chìm thì chỉ có Chúa mới biết chuyện gì đang diễn ra.
Ngài luôn quỵ lụy khúm núm trước các đại gia, nhưng lại thờ ơ hững hờ với người nghèo khó.
Ngài rất chăm chỉ với những việc giải trí, nhưng lại nhếch nhác các việc đạo đức và kinh Lễ.
Ngài nhớ rất kỹ tỷ số của các trận bóng đá, nhưng lại không nhớ nổi các câu Kinh Thánh cơ bản.
Ngài có đời sống bề ngoài rất phong phú đa dạng, nhưng đời sống nội tâm rất nghèo nàn trống rỗng.
Cuộc sống đang êm đềm yên ổn, xuôi chèo mát mái như 1 ông hoàng, như 1 đại gia, như 1 công tử bạc liêu.
Đùng 1 cái, Đức Cha giáo phận quyết định thuyên chuyển Ngài đến 1 giáo xứ vùng núi xa xôi hẻo lánh, không điện, không tiện nghi, không internet…
Ngài mặt mũi buồn bã, tâm trí thẫn thờ lên gặp Đức Cha xin cho đi 1 giáo xứ khác của vùng thành phố, vì Ngài có nhiều thứ quá, mà vào vùng núi hẻo lánh lại không sử dụng được.
Nhưng Đức Cha không đồng ý, Ngài bảo Cha cứ đi.
Ngài giải thích rằng, những thứ vật chất đó chỉ là phương tiện để rao giảng Tin Mừng thôi. Mà đã là phương tiện thì có cũng tốt, mà không có cũng chẳng sao. Phương tiện vật chất không cứu rỗi các Linh hồn được.
Điều quan trọng nhất để rao giảng là cuốn Kinh Thánh làm kim chỉ nam, là hăng say cầu nguyện, là luôn có Chúa trong mình, có Chúa thì cái gì rồi cũng có.
Cha đó đã buộc phải vâng lời, nhưng trong lòng vẫn ấm ức, tâm can hậm hực.
Nhưng khi Ngài đến ở giáo xứ mới 1 thời gian, thì Ngài đã ngộ ra rằng, bấy lâu nay Ngài đã quá bám víu vào vật chất và của cải thế gian, nên Chúa đã không thực sự ở trong Ngài. Ngài đã quên mất sứ vụ đích thực của mình.
Rồi sau đó Ngài quyết tâm cầu nguyện, siêng năng chầu Thánh Thể, chăm chỉ lần hạt Mân Côi, hoàn toàn phó thác mọi sự cho Chúa. Và Ngài đã phục sinh. Ngài đã thay đổi 180 độ thành con người tốt lành, tín thác, cậy trông, khiêm nhường, thánh thiện.
Điều quan trọng nhất là tâm hồn Ngài lại tràn đầy niềm vui, hạnh phúc viên mãn và Ngài lại hăng say hăm hở thao thức với sứ vụ như thuở ban đầu, thuở còn son.
Không điện, không tiện nghi, không Internet, thì lại có Chúa.
Có điện, có tiện nghi, có Internet, lại không có Chúa.
Vậy cái nào hơn???
Thật là tuyệt vời!
Vậy là vị Linh mục đó từ việc quá đam mê của cải vật chất và bám víu vào phù vân hay hư nát, đã hoàn toàn chuyển ngay sang yêu mến Thiên Chúa và xót thương con người.
Vậy là bài sai của Đức Cha đã trở thành bài hoàn toàn đúng.
Vài tháng sau về tĩnh tâm, Linh mục đó đã niềm nở đến cám ơn và tâm phục khẩu phục Đức Cha về sự sắp xếp sáng suốt của Ngài.
Có Chúa là có tất cả. Giáo xứ nào mà chẳng có Chúa.
Những Linh mục do dự không muốn chuyển xứ, thường là những Linh mục không thực sự có Chúa trong mình và là những Linh mục mê muội vật chất và của cải thế gian.
Khi con người ta sở hữu Chúa trong tâm hồn, thì những thứ vật chất lại trở nên không còn quan trọng và rất đỗi tầm thường.
Khi con người ta có Chúa trong mình, thì người ta sẽ không còn quá coi trọng hay bám víu vào danh dự và của cải thế gian.
Nhiều Linh mục càng giàu càng xa Chúa.
Nhiều Linh mục càng sang càng xa Dân.
Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn Linh mục giàu có và đẳng cấp vào nước Thiên Đàng.
Có người đã nhận xét đáng động não rằng: Chủng viện chỉ dạy các Chủng sinh làm cha chứ không dạy làm con. Cho nên đã có những Linh mục đáng buồn như vậy.
👉👉👉CÂU CHUYỆN SỐ 3:
Một giáo xứ kia có vị Linh mục xứ rất tốt lành thánh thiện, rất tài đức và khôn ngoan.
Ngài giảng rất đã tai mọi người. Ngài làm trước, giảng sau. Ai nấy đều trầm trồ khen ngợi và thán phục.
Một ngày đẹp trời nọ, Đức Cha giáo phận đã quyết định thuyên chuyển vị Linh mục đó đi xứ khác.
Giáo dân biết tin rất buồn bã và đau khổ. Buồn như ”bác” mất. Họ đã kéo nhau đông đảo lên gặp Đức Giám mục và phàn nàn khiếu nại tại sao Ngài để linh mục đó ra đi.
Họ còn nói thêm để gây áp lực là nếu Đức cha không để linh mục đó ở lại, thì họ sẽ không thèm đi lễ và xây dựng Giáo xứ nữa. Họ chẳng còn tâm trí đâu mà đọc kinh cầu nguyện nữa.
Sau 1 hồi Đức Giám mục giải thích rất êm ái nhẹ nhàng là Linh mục đó chuyển đi vì lợi ích của Giáo phận. Nhưng họ vẫn không chịu nghe.
Đức cha liền hỏi 1 câu: Vậy bà con theo Chúa hay theo cha? Nếu theo Chúa thì cha nào chả được? Tôi sẽ bổ nhiệm 1 linh mục phù hợp với Giáo xứ của bà con.
Còn nếu theo cha, thì tôi sẵn sàng đóng cửa nhà thờ và không cần ông bà anh chị em đi lễ nữa. Vì bà con không theo đạo vì Chúa mà vì cha.
Bấy giờ họ mới hiểu ra và vâng lời Đức giám mục để cha xứ ra đi.
Còn vị linh mục tài giỏi đó đã bớt tự hào kiêu hãnh về thành tích của mình và trở nên khiêm nhường thánh thiện hơn.
Chúng ta đừng chiều theo tình cảm tự nhiên. Mà hãy chiều theo tình cảm siêu nhiên.
MỖI NGƯỜI CHÚA BAN CHO ƠN LÀNH KHÁC NHAU.
MỖI LINH MỤC CHÚA BAN CHO TÀI NĂNG KHÁC NHAU.
Giáo hội ngày càng phát triển và biến đổi.
Việc luân phiên chuyển xứ giúp các Linh mục luôn tỉnh thức, sẵn sàng, sống tinh thần xin vâng, phục vụ, khiêm nhường, nghèo khó, từ bỏ, luôn nhìn lại mình, sám hối, canh tân, sống phó thác, cậy trông, bám chặt vào Chúa…
Một linh mục ở 1 giáo xứ quá lâu, thì sẽ không tốt cho chính vị Linh mục và giáo xứ đó. Vì rất có thể linh mục đó sẽ trở nên kiêu ngạo và sai lầm. Hơn nữa, giáo dân sẽ rất nhàm chán, không có món ăn lạ và luồng gió mới.
Cha xứ thì nhất thời, giáo dân mới vạn đại.
Nhiều người trong chúng ta cũng rất buồn vì Linh mục xứ tốt lành thánh thiện của mình ra đi. Nhưng mình cần linh mục đó 1, thì nơi khác cần linh mục đó 10. Nơi khác cũng là con của Chúa. Họ cũng là anh em của ta. Nên lọt sàng xuống nia. Anh em mình chứ ai? Đi đâu mà thiệt?
Đã đến lúc đức tin của chúng ta cần trưởng thành. Chúng ta đừng quá dựa dẫm vào bất kỳ linh mục nào.
Linh mục chỉ là người hướng dẫn ta gặp gỡ Thiên Chúa. Tâm hồn ta phải mở thật rộng ra thì ta mới gặp được Ngài.
Hơn nữa, đời sống đạo của ta muốn trưởng thành, ta cần tự bản thân tìm hiểu và không nên dựa vào bất cứ ai kể cả là Linh mục đạo đức thánh thiện.
Nếu ta đi lễ chỉ vì Linh mục giảng hay cho đã tai, mà những lời giảng đó không có sức mạnh biến đổi tâm hồn và đời sống của ta nên tốt lành hơn, thì sẽ trở nên hết sức vô nghĩa. Vị linh mục đó chỉ mang lại cho ta niềm vui giải trí rồi ta trầm trồ khen ngợi như một bộ phim hay mà thôi.
Linh mục giảng đã tai chưa chắc đã nói lên chân lý. Linh mục giảng đã tai rất có thể chỉ như chuyện vui cười.
VỊ LINH MỤC GIẢNG HAY NHẤT KHÔNG PHẢI LÀ 1 NHÀ HÙNG BIỆN TÀI NĂNG. MÀ VỊ LINH MỤC GIẢNG HAY NHẤT LÀ VỊ LINH MỤC CÓ LỜI GIẢNG LÀM BIẾN ĐỔI TÂM HỒN CON NGƯỜI. NGHĨA LÀ TỪ KẺ BẤT LƯƠNG TỘI LỖI TRỞ THÀNH NGƯỜI BỎ ĐÀNG TỘI LỖI HỐI CẢI ĐỂ SỐNG TỐT LÀNH THÁNH THIỆN HƠN.
VỊ LINH MỤC GIẢNG HAY NHẤT KHÔNG PHẢI VỊ LINH MỤC VUỐT VE, TÂNG BỐC ĐỂ LẤY LÒNG GIÁO DÂN BẰNG NHỮNG CÂU TỪ MỸ MIỀU ÊM ÁI RU NGỦ, MÀ VỊ LINH MỤC ĐÓ DÁM CHÂN THÀNH THẲNG THẮN CHỈ MẶT ĐẶT TÊN, ĐIỂM MẶT CHỈ TÊN SAI LẦM CỦA GIÁO DÂN ĐỂ HỌ SỬA CHỮA HẦU ĐẸP LÒNG CHÚA.
VỊ LINH MỤC TỐT LÀ VỊ LINH MỤC DÁM CAN ĐẢM LÀM ĐẸP LÒNG CHÚA HƠN ĐẸP LÒNG GIÁO DÂN.
VỊ LINH MỤC TỐT LÀ VỊ LINH MỤC DÁM NÓI LỜI CHÂN LÝ DÙ BỊ CHỐNG ĐỐI.
Vị Linh mục đích thực và có Chúa trong mình là những Linh mục luôn sẵn sàng vui vẻ vâng lời vô điều kiện Đức giám mục đi bất kỳ giáo xứ nào, bất cứ thời gian nào, bất cứ hoàn cảnh nào, kể cả vùng xâu vùng xa, kể cả là giáo xứ nghèo nàn lạc hậu, vùng ven hẻo lánh, vì linh mục đó xác tín rằng Chúa ở khắp mọi nơi, Giáo xứ nào cũng có Chúa. Mình đi đâu, thì đã có Chúa đi theo đó. Giáo xứ nào cũng được, vùng nào cũng chơi. Xá gì?
Cha xứ dù có tài giỏi đến đâu đi nữa, thì cũng không phải chỉ do bản thân cha xứ đó, mà tất cả là do hồng ân của Chúa.
👉👉👉Các Linh mục cần luôn ghi khắc trong tim Lời Tuyên Hứa Khi Chịu Chức Linh Mục:
Đức Giám Mục: Con thân mến, trước mặt Chúa và cộng đoàn dân Chúa, con hãy suy nghĩ thật kỹ, rồi trả lời quyết tâm của con.
Con có muốn luôn chu toàn nhiệm vụ của con là cộng tác viên trung tín của hàng Giám mục trong việc chăn dắt đoàn chiên Chúa, theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần không?
Tiến chức: Thưa con muốn.
ĐGM: Con có muốn sốt sắng và trung thành cử hành các mầu nhiệm của Đức Kitô để ngợi khen Thiên Chúa và thánh hóa giáo dân theo truyền thống của Hội Thánh không ?
Tiến chức: Thưa con muốn.
ĐGM: Con có muốn chu toàn một cách xứng đáng và khôn ngoan phận sự phục vụ Lời Chúa, là rao giảng Phúc Âm và trình bày Đức Tin Công Giáo không ?
Tiến chức: Thưa con muốn.
ĐGM: Con có muốn ngày càng liên kết mật thiết hơn với Đức Kitô Thượng Tế, Đấng tự hiến mình cho Đức Chúa Cha làm của lễ tinh tuyền vì chúng ta, và con có muốn cùng Người hiến thân cho Thiên Chúa để cứu độ loài người không ?
Tiến chức: Thưa, nhờ ơn Chúa giúp con muốn.
ĐGM: Con có hứa tôn kính và vâng phục cha cùng các Đấng kế vị cha không?
Tiến chức: Con xin hứa.
👉👉👉Có 1 câu chuyện ngụ ngôn trong “Cổ Học Tinh Hoa” như sau:
Con cú mèo gặp con chim gáy.
Chim gáy hỏi: “Bác sắp đi đâu đấy?”.
Cú mèo nói: “Tôi sắp sang ở bên phương đông”.
Chim gáy lại hỏi: “Tại làm sao lại phải đi thế?”
Cú mèo trả lời: “Ở đây người ta nghe tôi kêu, người ta ghét, cho nên tôi phải chuyển đến nơi khác”.
Chim gáy nói: “Bác phải đổi tiếng kêu đi mới được. Chứ không đổi, thì sang phương đông, người ta nghe tiếng kêu, cũng lại ghét bác mà thôi, vì nhân tình đâu mà chả thế”…
Thế nên các Linh mục cần phải luôn xem lại bản thân mình.
Xét xem mình đã giảng đúng Phúc Âm của Chúa và sống đúng tinh thần Tin Mừng Ngài yêu cầu chưa?
Nói phải, củ cải cũng nghe.
Nói sai, ai mà nghe nổi ?
Vậy xin đừng trách giáo dân, hãy tự trách mình.
Còn chúng ta hãy thần tượng Chúa chứ không phải cha. Thần tượng Chúa thì luôn bền vững và không bao giờ sai lầm.
Còn thần tượng cha thì có thể sai lầm nghiêm trọng, có thể không.
Nếu Thần tượng cha là ta đang thờ ngẫu tượng. Chúa sẽ phạt nặng.
Người ta có câu:
Gần cha, thì xa Chúa !
Hoặc nhìn thấy cha, thì nhận ra Chúa.
Điều đó tùy thuộc vào cảm nhận của mỗi người.
Các Linh mục có tài giỏi và đẳng cấp mấy đi nữa, thì các Ngài cũng chỉ xuất thân từ bụi đất, từ lòng mẹ và chỉ là tạo vật của Chúa mà thôi.
Một vị Giám mục đáng kính đã nói: “Đừng sợ thiếu linh mục. Chỉ sợ thiếu linh mục có phẩm chất”.
Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên những Linh mục của Ngài. (x Mt 3,9).
XIN BÀ CON THEO CHÚA, CHỨ ĐỪNG THEO CHA. CHỌN CHÚA, CHỨ ĐỪNG CHỌN LINH MỤC.
XIN CÁC LINH MỤC CHỌN CHÚA, CHỨ ĐỪNG CHỌN XỨ. CHỌN CHÚA, CHỨ ĐỪNG CHỌN CÔNG VIỆC CỦA CHÚA.
THEO CHÚA & CHỌN CHÚA, CHÚA SẼ HƯỚNG DẪN CÔNG VIỆC CẦN LÀM.
Linh mục là 1 Đức Giê-su khác, ta hãy tha thiết khẩn cầu cho các Ngài đừng bao giờ khác Đức Giê-su. Amen.

Tại sao phó tế mang dây stola chéo?

Trong thánh lễ đồng tế, các linh mục đeo dây stola buông thõng xuống, còn các phó tế thì đeo dây stola bắt chéo từ vai bên trái sang hông bên phải. Tại sao vậy? Dây stola có ý nghĩa gì?
Thiết tưởng nên phân biệt hai vấn đề. Thứ nhất là ý nghĩa của dây stola. Thứ hai cách thức đeo dây stola. Trong thánh lễ đồng tế, chúng ta thấy có các linh mục và các phó tế, mỗi đẳng cấp đeo dây stola một cách. Tuy nhiên, không chỉ có các linh mục và phó tế mới đeo dây stola mà thôi: các giám mục cũng đeo dây stola, và các giáo hoàng cũng thường chụp hình với dây stola màu đỏ. Đó là chưa kể một trường hợp mà rất ít người có dịp chứng kiến, đó là các nữ tu dòng Chartreux cũng đeo dây stola nữa.
Chúng ta bắt đầu với vấn đề thứ nhất: dây stola có ý nghĩa gì?
Ý nghĩa của dây stola đã thay đổi rất nhiều trải qua dòng lịch sử. Ý nghĩa của nó trong nguồn gốc văn hoá Hy- lạp và Rôma thì khác. Ý nghĩa của dây stola khi được du nhập vào phụng vụ Kitô giáo thì khác. Từ thời Trung cổ, người ta lại thêm ý nghĩa ám dụ nữa. Xét về nguồn gốc, các nhà sử học không đồng ý với nhau. Danh từ stola mới xuất hiện từ cuối thế kỷ VI, và dần dần thay thế danh từ orarium. Mỗi danh từ mang một nguồn gốc khác nhau. Danh từ stola có lẽ lúc đầu ám chỉ áo thụng của các bà quý tộc (tương đương với toga của các ông). Vì thế stola không phải là một sợi dây đeo ở cổ nhưng là một cái áo; có lẽ đó cũng là ý nghĩa của stola được nói trong sách Khải huyền (stolae albae 6,11; 7,9.14). Bên các Giáo hội Đông phương dây stola được gọi là Orarion, cũng tựa như bên Tây phương được gọi là Orarium cho đến thế kỷ IX. Thực ra Orarium cũng không phải là một cái dây, nhưng là một cái khăn đai, hay nói đúng hơn, một khăn quàng cổ. Xét về nguồn gốc trong xã hội Hy- lạp và Rôma, khăn orarium không phải là chiếc khăn quàng để che cổ cho khỏi cảm lạnh, nhưng là chiếc khăn để lau mặt hay để lau miệng (orarium bởi os, oris).
Như vậy, nguồn gốc dây stola là khăn chùi miệng khi ăn hay sao?
Không phải thế. Khi nói đến lau miệng, ta đừng vội nghĩ đến thực khách ngồi bàn ăn nhưng hãy nghĩ đến các nhà hùng biện. Họ phải diễn thuyết đến sùi bọt mép, vì thế thỉnh thoảng phải lau miệng. Dù sao, đó chỉ là một giả thuyết về nguồn gốc lịch sử mà thôi. Xét về việc sử dụng trong phụng vụ, thì bên Đông phương đã thấy nói tới trong một bản văn của công đồng Laodicea (năm 372), dành riêng orarium cho các phó tế, chứ các tác viên thấp hơn không được đeo. Thánh Gioan Kim khẩu cũng cho biết là các phó tế đeo orarium trên vai trái. Bên Tây phương thì ta thấy quy định về orarium của các phó tế trong một bản văn của công đồng Braga ở Tây ban nha (năm 563); và một bản văn công đồng Toledo IV (năm 633) nói đến cách thức đeo orarium khác nhau giữa các phó tế và các linh mục. Các phó tế thì đeo orarium màu trắng trên vai trái, bắt chéo, và ở trên áo dalmatica. Các linh mục và giám mục thì đeo orarium quanh cổ, buông thõng xuống, nhưng mà ở dưới áo lễ.
Đàng sau những quy định phức tạp như vậy, người ta có giải thích ý nghĩa của việc đeo dây stola như thế nào không?
Tiếc rằng các bản văn pháp lý không nói. Chính vì vậy mà các sử gia mới đưa ra nhiều giả thuyết về nguồn gốc và ý nghĩa của nó. Có lẽ lúc đầu, dây orarium chỉ có ý nghĩa thực dụng, đó là lau mặt, lau mồ hôi, hoặc che cổ cho ấm. Nhưng cách riêng, vào thời Trung cổ, người ta gán cho nó nhiều ý nghĩa ám dụ cho dây stola, được hiểu không chỉ như một dây mà còn là một tấm áo nữa.
1/ Hiểu như sợi dây, người ta ví dây stola như sợi dây mà quân dữ đã trói buộc Chúa Giêsu trong vườn cây dầu, hoặc dây trói vào cột đá khi chịu đánh đòn. Vì thế khi đeo dây stola, linh mục hãy nhớ đến sợi dây của đức vâng lời, ràng buộc mình với Chúa Kitô, hy sinh bản thân để cứu chuộc thế giới. Dây stola đeo lên vai cũng nhắc nhở rằng linh mục hãy mang lấy ách êm ái của Chúa Giêsu, học hỏi nơi Người sự hiền lành và khiêm tốn (Mt 11,29). Những điều này được đọc thấy nơi giám mục Sicardo của giáo phận Cremona. Dần dần theo hướng đó, các nhà thần học vạch ra đủ hết các thứ nhân đức cần thiết cho linh mục và phó tế; chẳng hạn như: đức khiêm nhường (Amalariô), đức vâng lời (Rupert de Deutz), khiết tịnh (Honorius), nhẫn nại (Innocente III), can đảm (Yves de Chartres). Rabanus Maurus thì hiểu stola như là biểu hiệu của lời giảng (có lẽ ý nghĩa này lấy từ khăn orarium lau miệng): trước khi giảng thì phải chuẩn bị chu đáo. Các nhà luân lý không quên lưu ý rằng dây stola được buộc vào dây thắt lưng (tượng trưng cho sự khổ hạnh), bởi vì đừng mong tập luyện nhân đức nếu thiếu sự khổ chế. Cách riêng, khi giải thích stola cho các phó tế (nguyên ngữ diaconos trong tiếng Hy-lạp là kẻ phục vụ) thánh Isidorus de Pelusio (+440) nhắc đến tấm khăn mà Chúa Giêsu dùng để lau chân cho các môn đệ sau khi đã khiêm tốn rửa chân cho họ.
2/ Nếu hiểu như tấm áo dựa theo sách Khải huyền, thì stola là biểu hiệu cho sự thanh sạch mà các tín hữu phải khoác vào để dự tiệc cưới trên trời. Con người được dựng nên trong tình trạng nguyên tuyền; nhưng do tội nguyên tổ, chiếc áo đã trở thành nhơ bẩn. Vì thế con người cần phải tìm cách rửa sạch nó, bằng nước mắt thống hối và nhất là nhờ quyền năng Thập giá Chúa Kitô, trong máu thánh của ngài. Ý nghĩa biểu tượng này còn được nhắc đến trong Sách lễ Rôma trước công đồng Vaticanô II. Khi đeo dây stola, linh mục thầm thĩ cầu xin: “Lạy Chúa, xin hoàn lại cho con stola của bất tử mà nguyên tổ đã làm mất; và tuy con không xứng đáng đến gần nhiệm tích thánh, xin Chúa cũng ban cho con sự hoan lạc đời đời”.
Trong Sách lễ Rôma hiện nay không còn kinh đó nữa hay sao?
Vào thời Trung cổ, người ta thích chú giải Kinh thánh và các bản văn phụng vụ theo nghĩa ám dụ. Cách riêng, khi bàn về Thánh lễ, người ta giải thích như cuộc diễn tuồng Thương khó, gồm các chặng giống như đi đàng Thánh giá vậy. Việc giải thích ý nghĩa ám dụ cũng áp dụng cho phẩm phục linh mục, chẳng hạn như áo alba ám chỉ linh hồn trong trắng; dây lưng ám chỉ đức khiết tịnh, áo lễ tượng trưng cho việc vác thánh giá. Từ công đồng Vaticanô II, thần học muốn tìm hiểu ý nghĩa văn bản của Kinh thánh cũng như biểu tượng tự nhiên của các bí tích, chứ không ưa lối giải thích ám dụ, nhiều khi dựa theo óc tưởng tượng hơn là theo bản chất của sự vật. Theo tôi nghĩ, đó là lý do vì sao Sách lễ sau công đồng Vaticanô II bỏ các kinh mà linh mục đọc khi mặc phẩm phục.
Sách lễ hiện nay quy định thế nào về việc đeo dây stola?
Quy tắc Sách Lễ Rôma ấn bản năm 2000 số 340 (tương đương với số 302 ấn bản cũ) quy định như sau: “Các tư tế đeo dây stola quanh cổ và buông thõng xuống đàng trước. Các phó tế đeo dây stola trên vai trái, bắt chéo ngang ngực, và thắt lại ở hông bên phải”. So với quy tắc trước công đồng, ta thấy có sự thay đổi không nhỏ đối với các linh mục. Trước đây (nghĩa từ sách lễ năm 1570), các linh mục đeo stola trên cổ và bắt chéo ra trước ngực như hình thánh giá; chỉ có giám mục mới buông thõng xuống, bởi vì ngài còn đeo thêm thánh giá nữa. Chúng ta cũng cần quy chiếu với các điều khoản khác có liên quan đến phẩm phục các tác viên. Đối với các phó tế, thì số 338 nói rằng phẩm phục gồm có áo alba, stola và dalmatica; nhưng vì nhu cầu hoặc lễ thường thì có thể miễn mặc dalmatica. Còn trong thánh lễ đồng tế, thì các linh mục có thể chỉ mặc áo alba và đeo stola.
Các linh mục không chỉ đeo dây stola lúc dâng thánh lễ mà thôi, nhưng còn lúc cử hành các lễ nghi phụng vụ khác nữa, phải không?
Đúng thế. Có lẽ vì vậy mà ở Việt Nam trước đây, người ta dịch stola là “dây các phép”, nghĩa là dây đeo lúc cử hành các phép bí tích. Tuy nhiên trong trường hợp này, ta thấy stola thường là màu trắng, trừ khi giải tội và nghi thức an táng thì đổi thành màu tím. Nên biết là vào thời cổ, dây stola (cũng như orarium và pallium) luôn luôn là màu trắng; mãi đến thế kỷ XVI, mới có tục thay đổi màu dây stola cho hợp với màu áo lễ trong ngày. Ngoài ra, cũng nên ghi nhận là trong những trường hợp linh mục đeo stola mà không có áo lễ thì kích thước của nó cũng rộng hơn.
[Trong giáo luật, từ stola còn mang một ý nghĩa chuyên môn, hiểu về vài công tác dành riêng cho các cha sở (ius stolae), mà vết tích còn thấy ở số 530 của bộ giáo luật. Cần phải có sự thỏa thuận của cha sở thì các linh mục khác mới được thi hành các nghi thức đó, thí dụ rửa tội, chứng hôn. Trong khung cảnh này, Stola tượng trưng cho quyền hành của cha sở].
Các giáo dân có được phép đeo stola không?
Tuỳ chúng ta hiểu stola theo nghĩa nào. Nếu hiểu theo nghĩa chuyên môn của phụng vụ thì duy chỉ có các giám mục, linh mục, phó tế mới đeo dây stola lúc cử hành phụng vụ. Còn nếu hiểu theo nghĩa rộng, là bất cứ đai nào cũng gọi là stola, thì chúng ta có thể nhận thấy tại vài nơi, các chức sắc trong giáo xứ cũng đeo đai trắng bắt chéo trước ngực, có lẽ bắt chước các phó tế. Dù sao, giữa hai hình thức (nghĩa rộng và nghĩa hẹp), ta nên thêm nghĩa thứ ba nữa, đó là các nữ tu dòng Chartreux. Vào ngày thánh hiến các chị nhận lãnh một dây stola, và chiếc stola này sẽ được đặt trong hòm lúc an táng. Do một đặc ân của Toà thánh, trong phụng vụ Giờ kinh Sách, chị nào đọc Phúc âm thì cũng đeo stola.