Thiếu Nhi Sống Lời Chúa, Chúa Nhật tuần 34 Thường niên năm C 23/11/2025. Chúa Kitô Vua Vũ Trụ

LỜI CHÚA MỖI NGÀY

Chúa Nhật XXXIV Thường niên, năm C: LỄ CHÚA KITÔ VUA

Bài Ðọc I: 2 Sm 5, 1-3

“Họ xức dầu phong Ðavít làm vua Israel”.

Trích sách Samuel quyển thứ hai.

Trong những ngày ấy, toàn thể chi tộc Israel đến cùng Ðavít tại Hebron mà nói rằng: “Ðây chúng tôi là cốt nhục của ngài. Nhưng từ trước đến giờ, khi Saolê đang làm vua chúng tôi, thì chính ngài đã dẫn dắt Israel. Và Chúa đã nói với ngài rằng: ‘Chính ngươi sẽ chăn dắt Israel dân Ta, và sẽ trở nên thủ lãnh Israel’”.

Vậy tất cả các vị kỳ lão Israel đều đến tìm nhà vua tại Hebron, và tại đó, vua Ðavít ký kết với họ một giao ước trước mặt Chúa. Họ liền xức dầu phong Ðavít làm vua Israel.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 121, 1-2. 3-4a. 4b-5

Ðáp: Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: “Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa” (c.1).

Xướng: Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: “Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa”. Hỡi Giêrusalem, chân chúng tôi đang đứng nơi cửa thành rồi.

Xướng: Giêrusalem được kiến thiết như thành trì, được cấu tạo kiên cố trong toàn thể. Nơi đây các bộ lạc, các bộ lạc của Chúa tiến lên.

Xướng: Theo luật pháp của Israel, để ngợi khen danh Chúa. Tại đây đã đặt ngai toà thẩm phán, ngai toà của nhà Ðavít.

Bài Ðọc II: Cl 1, 12-20

“Người đã đem chúng ta về Nước Con yêu dấu của Người”.

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôxê.

Anh em thân mến, chúng ta hãy cảm tạ Chúa Cha, Ðấng đã làm cho anh em xứng đáng lãnh phần gia nghiệp các thánh trong ánh sáng. Chúa đã cứu chúng ta thoát khỏi quyền lực u tối, đem chúng ta về nước Con yêu dấu của Chúa, trong Người chúng ta được ơn cứu rỗi nhờ máu Người, và được ơn tha tôi.

Người là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử mọi tạo vật; vì trong Người, muôn loài trên trời dưới đất đã được tác thành, mọi vật hữu hình và vô hình, dù là các Bệ thần hay Quản thần, dù là Chủ thần hay Quyền thần: Mọi vật đã được tạo thành nhờ Người và trong Người. Và Người có trước mọi loài, và mọi loài tồn tại trong Người.

Người là đầu thân thể tức là Hội thánh, là nguyên thuỷ và là trưởng tử giữa kẻ chết, để Người làm bá chủ mọi loài. Vì chưng Thiên Chúa đã muốn đặt tất cả viên mãn nơi Người, và Thiên Chúa đã giao hoà vạn vật nhờ Người và vì Người; nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa ban hoà bình trên trời dưới đất.

Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Mc 11, 10

Alleluia, alleluia! – Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến: chúc tụng nước Ðavid tổ phụ chúng ta đã đến. – Alleluia.

Phúc Âm: Lc 23, 35-43

“Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, các thủ lãnh cùng với dân chúng cười nhạo Chúa Giêsu mà rằng: “Nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi, nếu nó thật là Ðấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn”. Quân lính đều chế diễu Người và đưa dấm cho Người uống và nói: “Nếu ông là vua dân Dothái, ông hãy tự cứu mình đi”. Phía trên đầu Người có tấm bảng đề chữ Hylạp, Latinh và Dothái như sau: “Người Này Là Vua Dân Dothái”.

Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục Người rằng: “Nếu ông là Ðấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa”. Ðối lại, tên kia mắng nó rằng: “Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao? Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã làm, còn ông này, ông có làm gì xấu đâu?” Và anh ta thưa Chúa Giêsu rằng: “Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi”. Chúa Giêsu đáp: “Ta bảo thật ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”.

Ðó là lời Chúa

Chủ tế: Anh chị em thân mến! Thiên Chúa tạo dựng thế giới với mong muốn con người được hạnh phúc, no ấm, bình an và yêu thương nhau. Thế nhưng, qua bao thế kỷ, con người vẫn sống trong chiến tranh, hận thù, nghèo khổ và tội lỗi. Chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện:

1. “Họ xức dầu phong David làm vua Israel” – Xin cho các vị Mục tử biết noi gương Chúa Kitô vua tình thương, rao giảng vương quyền Người bằng sự tha thứ và phục vụ yêu thương.

2. “Người đã đem chúng ta về Nước Con yêu dấu của Người” – Xin cho mọi thành phần dân Chúa luôn can trường trước những thử thách đau thương của cuộc đời, đồng thời biết thăng hoa cuộc sống. Nhờ đó, họ biết tích cực kiến tạo một thế giới tốt đẹp cho trần thế, để sửa soạn cho Nước Trời vĩnh cửu.

3. “Các thủ lãnh cùng với dân chúng cười nhạo Chúa Giêsu” – Xin cho các nhà lãnh đạo các Quốc Gia nhận biết vương quyền Chúa, để họ biết tôn trọng sự thật, dẹp tan những tham vọng bạo tàn, hầu xây dựng một thế giới hòa hiệp và an bình, trong đó mọi người được tự do sống niềm tin của mình.

4. “Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi” – Xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta biết nhận Chúa là vua an bình của gia đình mình, biết biến đổi mình thành những chứng nhân tình yêu trong cuộc sống hôm nay, hầu góp phần kiến tạo Nước Đức Kitô đang hình thành giữa lòng thế giới.

Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu Kitô là Vua chiến thắng, là Vua hòa bình, là Vua yêu thương! tất cả chúng con là của Chúa, và muốn thuộc về Chúa. Xin giúp chúng con ở đời này biết đặt niềm tin cậy vào Chúa, để mai sau được cùng Chúa hưởng vinh quang bất diệt trong nhà Chúa Cha, Chúa là đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.

 

Bài giảng Chúa nhật cho thiếu nhi: Chúa nhật 34 Thường niên năm C – Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ

Anh ta thưa với Chúa Giê-su: “Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” (Lc 23,42)

Thiếu nhi chúng con yêu quý.

Cha đó chúng con: Hôm nay Giáo Hội cho chúng ta mừng lễ gì nào ?

– Thưa cha lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ.

– Rất đúng

– Thế vua là người như thế nào chúng con, chúng con có biết không ?
1. Đây cha cắt nghĩa cho chúng con.

Sau thế giới đại chiến lần thứ I, chế độ Vua cai trị, thường gọi là chế độ Quân chủ không còn được mấy nước áp dụng tuyệt đối như trước nữa. Chỉ còn lại một ít nước có mấy ông vua bà hoàng như một dấu vết của quá khứ còn lại, nhắc nhớ cho mọi người biết về một thể chế chính trị đã có trước đây như ở Thái Lan, Anh Quốc, Nhật v.v. nhưng thực quyền của họ hầu như không có gì cả. Bởi thế những người trẻ hôm nay, qua sách vở, khó hình dung rõ nét thế nào là một ông vua đúng nghĩa ngày xưa.

Chúng con học lịch sử chúng con thấy trước đây loài người cũng có một số ông vua tài giỏi về đánh giặc hay về việc cai trị. Thế nhưng con số này rất ít, chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Còn ra thì vì họ được cha truyền con nối, cho nên họ trở nên độc tài độc đoán, chỉ biết hưởng thụ cho riêng mình, chẳng quan tâm gì đến sự lầm than đói khổ của dân chúng dưới quyền họ. Lịch sử Trung Hoa còn cho biết, các ông vua còn tự xưng mình là Thiên tử, là con ông Trời, bắt ai chết thì người đó phải chết, cho ai sống thì người đó được sống (Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung). Các vua La Mã thì xưng mình là Thần, ngang với Thượng đế.

Nhìn chung, thì các vua trần gian ích kỷ, dâm ô. Khi họ đã nắm được ngai vàng rồi thì coi mọi người như bầy tôi, giang sơn đất nước như là tài sản riêng. Đời sống của mọi người dân trong đất nước thật tăm tối lầm than và khổ cực.

Chúng con hãy nghe câu chuyện này:

“Đất Vĩnh Châu bên Trung Quốc về thời nhà Đường có giống rắn lạ mình đen vằn trắng, hễ nó chạm vào cây cỏ, cây cỏ chết liền; cắn người, người cũng không thuốc gì chữa nổi, nhưng dùng làm thuốc sát trùng và trị các chứng phong thì rất công hiệu.

Vì thế, nhà vua ra lệnh bắt dân mỗi năm phải hiến cho vua hai con rắn đã dành. Ai làm được như thế thì được trừ thuế ruộng.

Mọi người đều thi nhau bắt rắn. Có gia đình họ Tương đã ba đời hành nghề. Một hôm có người khách sang trọng ghé chơi, hỏi chuyện, người họ Tương than thở :

– Ông nội tôi chết về nghề này, cha tôi cũng chết về nghề này, tôi đây mới làm mười hai năm, đã bị mấy lần suýt chết.

Người khách cảm động nói:

– Nếu vậy, để tôi can thiệp với quan trên cho anh bỏ nghề và cứ nộp thuế ruộng như thường.

Người họ Tương chảy nước mắt đáp lại.

– Ngài có lòng thương, xin đa tạ, nhưng xin miễn can thiệp.

Người khách lấy làm lạ, hỏi lý do, người họ Tương kể lể :

– Nếu tôi không làm nghề này thì khốn khổ đã lâu. Gia đình tôi ba đời ở đây, hơn 60 năm. Dân làng này mỗi ngày một sống điêu linh quẫn bách vì chính sách thuế má, thậm chí không biết bao nhiêu gia đình phải bỏ xóm làng ra đi, và cũng không biết bao nhiêu kẻ chết đường chết chợ, những người trạc ông nội tôi thì mười không còn một, còn trạc tuổi cha tôi thì còn độ hai ba, và còn trạc tuổi tôi thì còn độ bốn, năm vì không chết cũng bị lưu lạc. Tôi nhờ làm nghề bắt rắn mà còn.

Các quan lại hạt này về làm thuế làng tôi đâu có rõ, họ sục hết đầu làng cuối xóm, vơ vét cả con gà con chó, thượng vàng hạ cám, không tha thứ gì. Ai nấy đều sợ, còn hơn sợ rắn. Trong lúc ấy, về phần tôi, tôi được yên, cứ thấy trong giỏ còn rắn là tôi vững bụng không sợ đói, không lo mất giấc ngủ.

Ngài thấy không tôi làm nghề này một năm chỉ sợ chết hai lần, chớ đâu đến nỗi người làng tôi hết ngày này sang ngày khác, lúc nào cũng bị khốn khổ quan lại tàn ác. Giá tôi bị chết vì rắn, thì so với kẻ xung quanh, vẫn thấy còn thọ hơn. Như thế, tôi không dám xin vì lẽ rắn độc được.

2. Còn Chúa Giêsu là vua thì sao ?

Qua bài Tin Mừng vắn vỏi chúng ta vừa nghe hôm nay, thánh sử Luca đã cho mọi người thấy hình ảnh về một Vua Giêsu thật khác lạ, không giống với bất cứ ông vua nào trên trần thế từ trước đến hôm nay. Chúa Giêsu thật hiền lành và đầy lòng yêu thương.

Đây là Lời của thánh Luca: “Sau khi đóng đinh Ðức Giêsu vào thập giá:

dân chúng thì đứng nhìn,

các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo

Lính tráng cũng chế giễu Người.

Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người.

Không có một chút cảm thông, không một lời an ủi.

Vậy mà Chúa, Chúa đã làm gì chúng con biết không. Cha thấy Chúa dư sức, đủ uy quyền để trừng phạt đám dân độc ác này, thế nhưng Chúa đã không làm mà ngược lại Chúa còn cầu xin Chúa Cha tha cho họ: Lạy Cha xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm” . Sao Chúa hiền quá như vậy.

Thêm vào đó, tên gian phi cùng chịu đóng đinh bên cạnh Chúa, khi hắn cầu xin Chúa, Chúa đã thưởng cả nước Thiên đàng cho hắn. Thật không thể tưởng tượng nổi. “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Ðàng.” Cha hỏi chúng con có ông vua nào trên trần thế đối xử được như thế không ? Thật tình thương của Chúa cao cả lớn lao quá.

Chúng ta hãy bắt chước Chúa sống hiền lành yêu thương như vậy để được xứng đáng là công dân trong Nước của Chúa.

Chúng con hãy nghe câu chuyện này: “Lúc còn là linh mục trẻ, cha thánh Gioan Bosco thường hay ra vào trại cải huấn thăm viếng các chú bé bị giam. Ngày kia, ngài đến gặp ban giám thị trại và đề nghị:

– Tôi xin ban Giám thị cho tôi đưa các em đi cắm trại ngoài trời một ngày để chúng được tự do thoải mái đôi chút.

Cả ban giám thị nhìn nhau ngơ ngác. Xưa nay có ai lại đề nghị như thế bao giờ đâu! Lỡ ra mấy trăm tù nhân nhóc ấy bỏ chạy tán loạn thì chết cả lũ!

– Không được đâu cha ạ! Tụi nó trốn hết.

– Xin các ông cứ tin tưởng nơi tôi. Tôi sẽ dẫn đi trong trật tự và trả về đủ số, không thiếu một người

– Thiếu thì sao ?

– Tôi sẽ ở tù thay. Mà chắc không thiếu đâu. Trái lại, tôi hy vọng sau khi trở về chúng sẽ tử tế hơn, các ông điều khiển càng dễ…

– Xin lỗi cha, nếu không quen gặp cha năng ra vào trai mấy năm qua, chúng tôi tưởng cha là một người điên, hoặc mát mát tốc tốc làm sao ấy. Nguy hiểm lắm cha à!

Cha Bosco cứ dai dẳng năn nỉ một hồi, ban Quản đốc đồng ý nhưng với một điều kiện: sẽ có một đội lính đi bọc hai bên. Cha Bosco không chấp nhận điều kiện, cương quyết chỉ có mình ngài dẫn đi. Sau hết họ siêu lòng, đánh bạo cho phép.

Rồi chủ nhật được trù định đã đến. Cha Bosco sắp các tù nhân thành đội, mỗi đội có đội trưởng phụ trách. Cửa tù mở rộng. Các tù nhân hớn hở ra đi. Vượt khỏi thành phố Turinô họ đến một khu rừng mát mẻ, soạn lều cắm trại, dọn bếp nấu ăn, thi đua thể thao, hát hò văn nghệ thỏa thích … Thật là một khung cảnh ngoạn ngục! Cha Bosco lăng xăng giữa họ đùa chơi, chuyện trò hoặc khuyên bảo.

Trời càng về chiều Ban giám thị càng hồi hộp nhìn đồng hồ, mặt mày tái mét bảo nhau:

– Dại dột quá! Không chừng chết cả lũ.

Bỗng nghe tiếng đàn hát từ xa vọng lại. Họ thở phào nhẹ nhõm. Cửa tù lại mở rộng. Các tù nhân theo hàng ngũ tiến vào. Ban giám thị giở sổ điểm danh: không thiếu một mống!

Mấy ngày sau, Ban giám thị mở cuộc điều tra. Tất cả tù nhân trẻ đều trả lời:

– Cha Bosco yêu thương chúng tôi. Chúng tôi yêu thương cha Bosco. Bởi thế, nhiều lần chúng tôi muốn đào tẩu, nhưng nhìn ngài, chúng tôi không thể nào nhẫn tâm được!

Gặp lại cha Bosco, ban giám thị bắt tay ngài và nói:

– Cha làm chúng tôi một phen hú vía! Nhưng chúng tôi hết sức cảm phục cha. Cha đã trao quả tim cho họ và chinh phục trái tim họ về với cha. Chứ chúng tôi đây, với mấy vọng gác, hàng rào, khoá sắt, chó béc-giê, bóng đèn sáng, trăm người lính gác…vậy mà tháng nào cũng có đứa thoát”

Lạy Chúa xin cho mọi người chúng con biết sống giống như Chúa.

Học hỏi Phúc âm: Chúa nhật 34 Thường niên năm C

Học hỏi Phúc âm: Chúa nhật 34 Thường niên năm C

Lc 23,35-43

1. Trên thập giá, Đức Giêsu bị thách thức bởi mấy hạng người ? Những lời thách thức của họ có điểm nào chung ? Những lời thách thức này gợi ta nhớ đến biến cố nào Đức Giêsu đã trải qua trước đây ?

2. “Hắn đã cứu người khác”. Trước đây Đức Giêsu đã từng cứu ai không ? Đọc Lc 8,36; 8,48; 8,50; 18,42.

3. Tự cứu mình nghĩa là gì ? Tại sao người Do-thái lại thách Đức Giêsu tự cứu mình ? Đối với người Do-thái, Đấng Mêsia phải là Đấng như thế nào ?

4. Tại sao Đức Giêsu đã không muốn tự cứu mình ?

5. Đọc Lc 23,40-41. Qua câu nói của người trộm lành, bạn thấy tâm hồn anh như thế nào ?

6. Đọc Lc 23,42. Có ai gọi tên Đức Giêsu như anh trộm lành không. Đọc Lc 4,34; 8,28; 17,13; 18,38.

7. Đọc Lc 23,42. Anh tin người đang chịu đóng đinh cùng với anh là ai ? Đọc Lc 22, 29-30.

8. Anh xin gì với Đức Giêsu đang chịu đóng đinh ? Đọc Lc 1,54.72; Cv 10,31; Tv 106,4.

9. Đọc Lc 23,43. Thiên đàng là gì ? Đức Giêsu trên thập giá có mất niềm hy vọng không ? Đọc Lc 22,69; 24,46.51.

GỢI Ý SUY NIỆM:

1. Trên thập giá, Đức Giêsu bị thách thức bởi mấy hạng người? Những lời thách thức của họ có điểm nào chung? Những lời thách thức này gợi ta nhớ đến biến cố nào Đức Giêsu đã trải qua trước đây?

2. “Hắn đã cứu người khác”. Trước đây, Đức Giêsu đã từng cứu ai không? Đọc Lc 8,36; 8,48; 8,50; 18,42.

3. Tự cứu mình nghĩa là gì? Tại sao người Do Thái lại thách Đức Giêsu tự cứu mình? Đối với người Do Thái, Đấng Mêsia phải là người như thế nào?

4. Tại sao Đức Giêsu đã không muốn tự cứu mình?

5. Đọc Lc 23,40-41. Qua câu nói của người trộm lành, bạn thấy tâm hồn anh như thế nào?

6. Đọc Lc 23,42. Có ai gọi tên Đức Giêsu như anh trộm lành không? Đọc Lc 4,34; 8,28; 17,13; 18,38.

7. Đọc Lc 23,42. Anh trộm lành tin người đang chịu đóng đinh cùng với anh là ai? Đọc Lc 22,29-30.

8. Anh xin gì với Đức Giêsu đang chịu đóng đinh? Đọc Lc 1,54. 72; Cv 10,31; Tv 106,4. Đức Giêsu trên thập giá có mất niềm hy vọng không? Đọc Lc 22,69; 24,46.

GỢI Ý SUY NIỆM

Trong bài Tin mừng này, anh trộm lành nói đến việc Đức Giêsu vào Nước của Ngài, qua đó anh tin Đức Giêsu là một vị Vua. Bài Tin mừng này được đọc vào lễ Chúa Kitô Vua. Bạn có thấy cách làm vua của Chúa Giêsu không? Cách này có khác với cách làm vua kiểu người đời không?

PHẦN TRẢ LỜI

1. Trên thập giá Đức Giêsu bị thách thức bởi ba hạng người: các thủ lãnh của Do Thái giáo (Lc 23,35), lính tráng của người Rôma (Lc 23,36-38), và một trong hai tên gian phi (Lc 23,39). Những lời thách thức này có một điểm chung, đó là cám dỗ Đức Giêsu cứu lấy chính mình. “Hãy cứu lấy mình” được nhắc lại ba lần (Lc 23,35. 37. 39). Những lời này còn gợi ta nhớ đến hai lời Xatan cám dỗ Đức Giêsu trong hoang địa, bắt đầu bằng câu: “Nếu ông là Con Thiên Chúa…” (Lc 4,3. 9). Trong Lc 23,35-43 ta cũng gặp hai câu nói bắt đầu bằng chữ “nếu”: “Nếu hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa (Lc 23,35); “Nếu ông là vua dân Do Thái” (Lc 23,37). Xatan giăng ra một cái bẫy cho Đức Giêsu: nếu ông thật sự là vua, là Kitô, thì ông phải chứng tỏ ra bằng cách cứu lấy mình. Nếu ông không cứu được mình thì ắt ông không phải là Vua Mêsia.

2. Các thủ lãnh là những người chủ mưu giết Đức Giêsu, nhưng họ cũng phải thừa nhận rằng Đức Giêsu “đã cứu những người khác” trong thời gian mấy năm qua (Lc 23,35). Trong Tin mừng Luca, động từ “cứu” (sôzô) được sử dụng nhiều lần. Đức Giêsu đã cứu một người bị quỷ ám (Lc 8,36), cứu người phụ nữ bị xuất huyết đã mười hai năm (Lc 8,48), cứu cô con gái đã chết của ông trưởng hội đường (Lc 8,50), và cứu anh mù ở Giêricô (Lc 18,42). Ta thấy động từ “cứu” ở đây thường được hiểu là chữa khỏi bệnh.

3. Các thủ lãnh, lính tráng và tên gian phi đều cám dỗ Đức Giêsu “tự cứu mình”. Tự cứu mình là dùng quyền năng Thiên Chúa ban cho mình để thoát khỏi cảnh bị đóng đinh và chết nhục nhã trên thập giá. Nếu Đức Giêsu thật là người của Thiên Chúa thì Thiên Chúa phải ban cho Ngài khả năng xuống khỏi thập giá. Nếu Ngài không xuống được, thì chắc chắn Ngài không phải là người của Thiên Chúa, bị Thiên Chúa bỏ rơi. Ngài lại càng không phải là Đấng Kitô hay Mêsia, vì đối với người Do Thái, Đấng Mêsia phải là đấng toàn thắng quân thù để xây dựng một nước Do-thái độc lập, tự do. Một người bị đóng đinh là một người thất bại hoàn toàn, bị Thiên Chúa nguyền rủa (Đnl 21,23; Gl 3,13), và không đáng tin.

4. Đức Giêsu đã không muốn tự cứu mình dù Ngài đã nghe ba lần lời thách thức ấy (Lc 23,35. 37. 39). Trong Vườn Dầu, vì biết Cha muốn Ngài hiến mạng sống để chuộc tội nhân loại nên Ngài đã vâng phục (Lc 22,42). Giờ đây Ngài chấp nhận ở lại trên thập giá vì muốn theo ý Cha. Chính vì biết mình là Đức Kitô của Thiên Chúa (Lc 9,20; 19,38), là Con của Thiên Chúa Cha (x. Lc 22,70; 23,34. 46), nên Ngài đã không xuống khỏi thập giá. Ngài không dùng quyền năng Cha ban để tự cứu mình, nhưng để Cha cứu mình theo cách Cha muốn.

5. Qua Lc 23,40-41 ta thấy tâm hồn của anh trộm lành. Anh là một tên gian phi đang chịu án tử trên thập giá, nhưng anh khiêm tốn nhìn nhận mình chịu hình phạt thế này là đích đáng (Lc 23,41). Anh mắng tên gian phi kia vì hắn không có lòng kính sợ Thiên Chúa khi hắn bảo Đức Giêsu hãy tự cứu mình (Lc 23,40). Hơn nữa, anh dám khẳng định Đức Giêsu vô tội (Lc 23,41), gián tiếp chống lại bản án của Rôma. Quả thật, trong giây phút gần kề cái chết, anh trộm lành, đã được ơn khiêm tốn nhìn nhận tội mình, ơn bình an chấp nhận hình phạt thập giá, ơn nhận ra và can đảm tuyên bố sự vô tội của Đức Giêsu. Anh trở nên người biết “sợ Thiên Chúa”, khác với anh kia (Lc 23,40).

6. Anh trộm lành bắt đầu cuộc đối thoại với Đức Giêsu trên thập giá, cuộc đối thoại lạ lùng giữa hai người tử tội gần kề với cái chết. Anh gọi thẳng tên Giêsu (Lc 23,42). Trong Tin mừng Luca, quỷ cũng gọi tên Giêsu (Lc 4,34; 8,28); mười người phong (Lc 17,13) và người mù ở Giêricô (Lc 18,38) cũng vậy. Quỷ gọi tên Đức Giêsu để mong làm chủ được Ngài. Còn người ta gọi tên Đức Giêsu để cầu xin Ngài nâng đỡ và cứu chữa.

7. Anh trộm lành nói với Đức Giêsu về “Nước của Ngài” (Lc 23,42). Như thế đối với anh, Đức Giêsu, người đang bị đóng đinh, gần kề cái chết, lại là vị Vua của một Nước. Nước này nằm ở thế giới bên kia. Anh tin Đức Giêsu sắp bước vào Nước đó trong tư cách là Vua. Lòng tin lạ lùng của anh có thể bắt nguồn từ thái độ tha thứ của Đức Giêsu trước kẻ thù, và thái độ bình an trước đau khổ. Quả thật, theo Lc 22,29-30, Đức Giêsu nói đến việc Ngài trao lại cho môn đệ Vương quốc mà Chúa Cha đã trao cho Ngài. Trong Vương quốc ấy, họ sẽ được đồng bàn với Ngài và ngồi xét xử dân Ítraen.

8. Anh xin Đức Giêsu nhớ đến anh. Khi Thiên Chúa nhớ lại giao ước hay lời hứa, Ngài sẽ thực hiện (Lc 1,54. 72). Khi Thiên Chúa nhớ một người, Ngài sẽ thi ân cho người đó (Cv 10,31; Tv 106,4). Đức Giêsu không chỉ nhớ đến anh trộm lành khi Ngài vào Nước của Ngài, mà còn cho anh được ở với Ngài ngay hôm nay. “Nước Chúa”, “Nước Cha” hay “thiên đàng” là những lối nói diễn tả tình trạng của con người khi được “ở với Chúa Giêsu,” được thông hiệp với Ba Ngôi cách trọn vẹn và mãi mãi. Qua lời hứa của Đức Giêsu với anh trộm lành, ta thấy Đức Giêsu hấp hối trên thập giá không hề mất niềm hy vọng (x. Lc 22,69; 24,46).

“Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!”
Thiếu Nhi VHTK CN34TNC, Lễ Chúa Kitô Vua
Thiếu Nhi VHTK Chúa Nhật 34 TN C
Lễ CHÚA KITÔ, VUA VŨ TRỤ
Tin Mừng thánh Luca 23, 35-43
I. TRẮC NGHIỆM

01. Các thủ lãnh Do thái nghĩ Đức Giê-su là ai nếu có khả năng cứu lấy chính mình? (Lc 23,35)
a. Người được tuyển chọn.                b. Đấng Kitô của Thiên Chúa.
c. Vị giải phóng dân tộc.                   d. Chỉ a và b đúng.

02. Những người đã chế nhạo Đức Giêsu khi người bị đóng đinh vào thập giá là ai? (Lc 23,35-36)
a. Lính tráng.                                   b. Các thủ lãnh.
c. Những môn đệ.                             d. Chỉ a và b đúng.

03. Tấm bảng được đóng phía trên đầu Đức Giêsu ghi điều gì? (Lc 23,38)
a. Người này là Con Thiên Chúa.
b. Đây là vua người Do thái.
c. Vinh danh Thiên Chúa trên trời.
d. Đây là Người.

04. Người gian phi sám hối đã nói gì? (Lc 23,42)
a. Ông hãy cứu mình và cứu chúng tôi với.
b. Ông hãy thương xót chúng tôi.
c. Khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi.
d. Xin ông cứu vớt chúng tôi.

05. Đức Giê-su nói với người gian phi sám hối thế nào? (Lc 23,43)
a. Hôm nay, anh được giải thoát.
b. Anh thật có phúc.
c. Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng.
d. Anh sẽ được điều anh muốn.


II. Ô CHỮ 

Những gợi ý

01. Tấm bảng ghi Đức Giêsu là gì của người Do thái? (Lc 23,38)

02. Dân chúng đứng nhìn, còn ai thì buông lời cười nhạo? (Lc 23,35)

03. Tấm bảng ghi Đức Giêsu là vua của người nào? Do thái (Lc 23,38)

04. Các thủ lãnh tự hỏi Đức Giêsu có phải là ai của Thiên Chúa? (Lc 23,35)

05. Lính tráng làm gì khi thấy Đức Giêsu bị đóng đinh thập giá? (Lc 23,36)

06. Người gian phi sám hối được ở đâu với Đức Giêsu? (Lc 23,43)

07. Người gian phi sám hối thưa với ai hãy nhớ đến tôi khi vào trong nước của Ngài? (Lc 23,42)

08. Ai đứng nhìn Đức Giêsu chịu đóng đinh? (Lc 23,35)

Hàng dọc: Chủ đề của ô chữ này là gì?
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

III CÂU THÁNH KINH HỌC THUỘC LÒNG

“Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!”
Tin Mừng thánh Luca 23, 42

Lời giải đáp
Thiếu Nhi Vui Học Thánh Kinh
Lễ CHÚA GIÊSU VUA VŨ TRỤ

I. TRẮC NGHIỆM

01. d. Chỉ a và b đúng (Lc 23,35)
02. d. Chỉ a và b đúng (Lc 23,35-36)
03. b. Đây là vua người Do thái (Lc 23,38)
04. c. Khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi (Lc 23,42)
05. c. Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng (Lc 23,43)

II. Ô CHỮ 

01. Vua (Lc 23,38)
02. Các thủ lãnh (Lc 23,35)
03. Do thái (Lc 23,38)
05. Đấng Kitô (Lc 23,35)
06. Chế giễu (Lc 23,36)
07. Thiên đàng (Lc 23,43)
08. Đức Giêsu (Lc 23,42)
09. Dân chúng (Lc 23,35)

Hàng dọc : Vua Giêsu

Vui học Kinh Thánh, Chúa Nhật XXXIV Thường niên, năm C: LỄ CHÚA GIÊSU KITÔ VUA VŨ TRỤ

 

“Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!”

Tin Mừng thánh Luca 23,35-43

TIN MỪNG

Đức Giêsu bị nhục mạ (Mt 27, 37 -44; Mc 15, 26 -32 )

35Dân chúng đứng nhìn, còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo: “Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn!” 36Lính tráng cũng chế giễu Người. Chúng lại gần, đưa giấm cho Người uống 37và nói: “Nếu ông là vua dân Dothái thì cứu lấy mình đi!” 38Phía trên đầu Người, có bản án viết: “Đây là vua người Dothái”.

Người gian phi sám hối

39Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!” 40Nhưng tên kia mắng nó: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! 41Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!” 42Rồi anh ta thưa với Đức Giêsu: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” 43Và Người nói với anh ta: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng”.

35The people stood by and watched; the rulers, meanwhile, sneered at him and said, “He saved others, let him save himself if he is the chosen one, the Messiah of God”. 36Even the soldiers jeered at him. As they approached to offer him wine 37they called out, “If you are King of the Jews, save yourself”. 38Above him there was an inscription that read, “This is the King of the Jews”.

39 Now one of the criminals hanging there reviled Jesus, saying, “Are you not the Messiah? Save yourself and us”. 40The other, however, rebuking him, said in reply, “Have you no fear of God, for you are subject to the same condemnation? 41And indeed, we have been condemned justly, for the sentence we received corresponds to our crimes, but this man has done nothing criminal” 42Then he said, “Jesus, remember me when you come into your kingdom”. 43He replied to him, “Amen, I say to you, today you will be with me in Paradise”.

I. HÌNH TÔ MÀU

* Chủ đề của hình này là gì?

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
* Bạn hãy viết lại câu TM thánh Luca 23,38
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

II. TRẮC NGHIỆM

01. Các thủ lãnh Do thái nghĩ Đức Giêsu là ai nếu có khả năng cứu lấy chính mình? (Lc 23,35)
a. Người được tuyển chọn.
b. Đấng Kitô của Thiên Chúa.
c. Vị giải phóng dân tộc.
d. Chỉ a và b đúng.

02. Đây là những người đã chế nhạo Đức Giêsu khi người bị đóng đinh vào thập giá. (Lc 23,35-36)
a. Lính tráng.
b. Các thủ lãnh.
c. Những môn đệ.
d. Chỉ a và b đúng.

03. Tấm bảng được đóng phía trên đầu Đức Giêsu ghi điều gì? (Lc 23,38)
a. Người này là Con Thiên Chúa.
b. Đây là vua người Do thái.
c. Vinh danh Thiên Chúa trên trời.
d. Đây là Người.

04. Người gian phi sám hối đã nói gì? (Lc 23,42)
a. Ông hãy cứu mình và cứu chúng tôi với.
b. Ông hãy thương xót chúng tôi.
c. Khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi.
d. Xin ông cứu vớt chúng tôi.

05. Đức Giêsu nói với người gian phi sám hối thế nào? (Lc 23,43)
a. Hôm nay, anh được giải thoát.
b. Anh thật có phúc.
c. Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng.
d. Anh sẽ được điều anh muốn.

III. Ô CHỮ  

Những gợi ý

01. Tấm bảng ghi Đức Giêsu là gì của người Do thái? (Lc 23,38)

02. Các thủ lãnh buông lời gì trước cái chết của Đức Giêsu? (Lc 23,35)

03. Thứ người ta đưa cho Đức Giêsu uống. (Lc 23,36)

04. Các thủ lãnh tự hỏi Đức Giêsu có phải là ai của Thiên Chúa? (Lc 23,35)

05. Lính tráng làm gì khi thấy Đức Giêsu bị đóng đinh thập giá? (Lc 23,36)

06. Người gian phi sám hối được ở đâu với Đức Giêsu? (Lc 23,43)

07. Người gian phi sám hối thưa với ai hãy nhớ đến tôi khi vào trong nước của Ngài? (Lc 23,42)

08. Ai đứng nhìn Đức Giêsu chịu đóng đinh? (Lc 23,35)

Hàng dọc: Chủ đề của ô chữ này là gì?

IV. CÂU THÁNH KINH HỌC THUỘC LÒNG

“Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!”

Tin Mừng thánh Luca 23,42

Lời giải đáp
VUI HỌC THÁNH KINH
LỄ ĐỨC GIÊSU KITÔ VUA VŨ TRỤ

I. HÌNH TÔ MÀU

* Chủ đề: Chúa Giêsu

* Tin Mừng thánh Luca 23,38

“Đây là vua người Dothái”.

II. TRẮC NGHIỆM

01. d. Chỉ a và b đúng (Lc 23,35)
02. d. Chỉ a và b đúng (Lc 23,35-36)
03. b. Đây là vua người Do thái (Lc 23,38)
04. c. Khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi (Lc 23,42)
05. c. Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng (Lc 23,43)

III. Ô CHỮ 

01. Vua (Lc 23,38)
02. Cười nhạo (Lc 23,35)
03. Giấm (Lc 23,36)
05. Đấng Kitô (Lc 23,35)
06. Chế giễu (Lc 23,36)
07. Thiên đàng (Lc 23,43)
08. Đức Giêsu (Lc 23,42)
09. Dân chúng (Lc 23,35)

Hàng dọc: Vua Giêsu

Kinh thánh bằng hình: Chúa nhật 34 Thường niên năm C

Kinh thánh bằng hình: Chúa nhật 34 Thường niên năm C

Trò chơi ô chữ – Chúa Nhật XXXIV TNC – Lễ Chúa Ki-tô Vua

Trò chơi ô chữ – Chúa Nhật XXXIV TNC – Lễ Chúa Ki-tô Vua